
23 thg 3, 2016
'Tảo hôn thực trạng, nguyên nhân và giải pháp'
là lãnh đạo xã, phường cũng tiếp tay cho nạn tảo hôn, thậm chí tảo hôn còn diễn
ra ngay trong gia đình của những người cán bộ này.
4. NHỮNG GIẢI PHÁP LOẠI TRỪ NẠN TẢO HÔN Ở VIỆT NAM
4.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật,
nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân
Đây là biện pháp quan trọng nhất nhằm loại trừ nạn tảo hôn ở Việt Nam
hiện nay. Nguyên nhân cốt lõi khiến nạn tảo hôn bùng nổ chính là do công tác
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục các kiến thức về pháp luật, về hôn nhân gia
đình, về sức khỏe sinh sản còn yếu khiến người dân không biết và không có ý
thức chấp hành và tuân thủ pháp luật. Để hạn chế được điều đó cần phải:
Thứ nhất, phải đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền,
giáo dục các kiến thức về pháp luật, về hôn nhân gia đình, về sức khỏe sinh sản
cho người dân, đặc biệt là đồng bào thiểu số, người miền núi, vùng sâu vùng xa.
Chính quyền các cấp cần tập huấn nâng cao kiến thức, kỹ năng tuyên truyền, vận
động cho đội ngũ cán bộ dân số cơ sở. Các ban, ngành, đoàn thể phải phát huy
hơn nữa vai trò của mình trong việc tuyên truyền chính sách dân số nói chung và
phòng tránh tảo hôn nói riêng. Thực hiện công tác tuyên truyền, vận động, giáo
dục phải mở rộng theo hướng xã hội hoá. Huy động tối đa các tổ chức có dân
tham gia tuyên truyền, vận động các chính sách dân số gia đình và trẻ em qua
nhiều hình thức như truyền thông đại chúng, tuyên truyền trực tiếp qua các hội
nghị của các ngành, đoàn thể các cấp, đồng thời tăng cường hoạt động của đội
ngũ tuyên truyền viên ở cơ sở.
Thứ hai, phải nâng cao trình độ dân trí cũng như ý thức pháp luật cho
người dân. Đây là một giải pháp vừa quan trọng vừa khó khăn nhất. Mọi hủ tục
lạc hậu đều xuất phát từ sự kém hiểu biết, đặc biệt ở miền núi, vùng sâu vùng
xa, nơi mà tình trạng tảo hôn là phổ biến. Cần có sự tuyên truyền nhận thức mới,
xóa bỏ những hủ tục, nếp sống không văn minh, phổ cập, giáo dục kiến thức
khoa học, giới tính mà cụ thể là các tác động xấu của việc tảo hôn, kết hôn chưa
11
đên tuổi pháp luật quy định. Công tác này rất khó khăn và đòi hỏi sự kiên trì,
phối hợp của các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương bởi lẽ, các hủ
tục này đã ăn sâu vào đời sống tinh thần hàng ngày của người dân bản địa.
4.2. Nâng cao trách nhiệm của chính quyền trong quá trình quản lý
Với vai trò thực hiện pháp luật trong đời sống, các cơ quan chính quyền
địa phương có nhiệm vụ rất quan trọng trong vấn đề bài trừ nạn tảo hôn tại địa
phương mình. Do đó, thứ nhất, cần có sự chỉ đạo sát sao hơn nữa, quan tâm hơn
nữa của các cấp chính quyền trong việc phổ cập kiến thức về hôn nhân và gia
đình cũng như giám sát việc thực hiện các công tác về truyên truyền kiến thức.
Đưa mục tiêu về hôn nhân và gia đình vào chương trình, kế hoạch hoạt động của
chính quyền và các đoàn thể ở địa phương hàng năm.
Thứ hai, cần quan tâm tới công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ, nhất là
đội ngũ cán bộ lãnh đạo dân số gia đình và trẻ em cấp huyện. Với các chức danh
lãnh đạo cần lựa chọn những người có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh vững
vàng để tránh trường hợp họ vì lợi ích kinh tế mà tiếp tay cho nạn tảo hôn diễn
ra tại địa phương mình.
Thứ ba, cần phối hợp chặt chẽ giữa các địa phương với nhau, giữa các
cấp với nhau trong công cuộc đẩy lùi hủ tục, thực hiện nếp sống văn minh, lành
mạnh, tiến bộ.
Ngoài ra, chính quyền địa phương cần có các chính sách kiên quyết
nhưng hợp lý nhằm xử lý và loại bỏ tình trạng tảo hôn trong đời sống. Cụ thể,
khi có hành vi vi phạm điều kiện kết hôn, tòa án nhân dân có thể xử hủy việc kết
hôn trái pháp luật. Theo đó, nếu thời điểm có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp
luật mà một bên hoặc cả hai bên vẫn chưa đến tuổi kết hôn thì quyết định hủy
việc kết hôn trái pháp luật. Nếu đến thời điểm có yêu cầu hủy việc kết hôn trái
pháp luật mà cả hai bên tuy đã đến tuổi kết hôn, nhưng cuộc sống của họ trong
thời gian qua không có hạnh phúc thì quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật.
Ngược lại, nếu đến thời điểm có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật mà cả
12
hai bên đã đến tuổi kết hôn, chung sống hạnh phúc, đã có con chung, tài sản
chung thì không quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật6.
4.3. Cải thiện đời sống của người dân, đặc biệt là nhân dân miền núi,
vùng sâu vùng xa
Theo quan niệm của những người dân miền núi, họ không coi trọng việc
học hành, giáo dục mà chỉ quan tâm đến việc kiếm miếng cơm manh áo hàng
ngày nên dẫn đến thực trạng nhiều em bỏ học giữa chừng, thậm chí là không
được đi học để ở nhà làm việc. Đây vừa là nguyên nhân dẫn đến hiểu biết lạc
hậu, vừa khiến cho công tác truyên truyền, giáo dục không phát huy hiệu quả
đến cùng. Vì vậy, việc kết hợp giữa nâng cao đời sống vật chất, tinh thần với
công tác phổ cập kiến thức là quan trọng.
Thứ nhất, cần có sự triển khai đồng bộ các chính sách phát triển kinh tế
gia đình của nhà nước. Song song với đầu tư cho các vùng kinh tế động lực, cần
quan tâm đầu tư cho nông thôn. Ưu tiên hỗ trợ cho gia đình người dân chính
sách, gia đình đồng bào dân tộc thiểu số, gia đình nghèo, gia đình vùng sâu vùng
xa, vùng khó khăn nhằm nỗ lực xoá dần sự chênh lệch giữa các vùng, từng bước
nâng cao đời sống nhân dân, xoá bỏ tư tưởng, phong tục lạc hậu về vấn đề tảo
hôn cũng như ma chay, cúng bãi.
Thứ hai, phải bảo đảm cho tất cả gia đình dân tộc thiểu số có đất sản xuất
và việc làm. Góp phần hiệu quả cho công tác xoá đói giảm nghèo; nâng cao
nhận thức, hiểu biết pháp luật của người dân.
Thứ ba, cần đẩy mạnh công tác hướng nghiệp trong các trường phổ thông,
phát triển các trường dạy nghề cho thanh thiếu niên bước vào tuổi lao động phù
hợp yêu cầu phát triển của từng vùng, từ đó có cơ sở tạo việc làm, nghề nghiệp ổn
định cuộc sống.
4.4. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về hôn nhân và gia đình nói chung
và những quy định về vấn đề tảo hôn nói riêng
Thứ nhất, cần hoàn thiện các quy định của pháp luật về độ tuổi kết hôn.
6
Theo Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao;
13
Theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình hiện hành, độ tuổi kết hôn của
nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên (chứ không phải từ đủ
mười tám tuổi trở lên). Tuy nhiên, đối chiếu theo quy định của một số ngành
luật liên quan thì quy định này chưa có sự thống nhất. Theo quy định của Bộ
luật Dân sự , nhiều giao dịch đòi hỏi chủ thể của giao dịch phải là người có đầy
đủ năng lực hành vi dân sự, tức là người từ đủ mười tám tuổi trở lên. Theo quy
định của pháp luật về tố tụng dân sự, cá nhân phải đủ mười tám tuổi trở lên mới
có thể tự mình là chủ thể của quan hệ tố tụng. Trong khi đó, theo Luật Hôn nhân
và Gia đình 2000, nữ bước sang tuổi mười tám kết hôn được coi là hợp pháp và
họ được quyền tự do ly hôn. Tuy nhiên, quyền tự do ly hôn của họ không thể
thực hiện nếu sau khi kết hôn đến thời điểm có yêu cầu ly hôn họ chưa đủ mười
tám tuổi.
Do đó, để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất với quy định của các văn bản
pháp luật khác, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể có
liên quan, Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 cần sửa đổi quy định độ tuổi kết hôn
của nam, nữ ít nhất phải từ đủ mười tám tuổi trở lên. Như thế mới thật sự đảm
bảo về khả năng đảm đương trách nhiệm làm vợ chồng, làm cha mẹ của các cặp
vợ chồng trước khi bước vào cuộc sống gia đình.
Thứ hai, cần phải quy định các chế tài xử phạt hành vi tảo hôn, tổ chức
tảo hôn phù hợp với thực tế. Một mặt, pháp luật cần giữ nguyên hình thức phạt
tiền và tăng mức tiền phạt để hạn chế nạn tảo hôn, mặt khác lại cần phải bổ sung
thêm các hình thức xử phạt khác sao cho phù hợp với khả năng thực hiện của địa
phương, của đối tượng vi phạm. Ví dụ như áp dụng hình thức bãi miễn chức vụ
đối với những người có chức vụ, quyền hạn mà con của họ kết hôn khi chưa đủ
tuổi. Không chỉ vậy, cần nghiêm khắc thực hiện quy định về tội tổ chức tảo hôn,
tội tảo hôn tại Điều 148 Bộ luật Hình sự 1999, sửa đối năm 2009 để thể hiện tính
răn đe đối với những hành vi trái pháp luật.
Ngoài ra còn một số biện pháp hoàn thiện pháp luật khác như bổ sung các
quy định pháp lý về chuẩn mực gia đình Việt Nam tiến bộ, hạnh phúc bền vững
14
để làm mục tiêu phấn đấu cho các gia đình cũng như toàn xã hội; xây dựng các
quy phạm pháp luật quy định danh mục các phong tục, tập quán lạc hậu về hôn
nhân và gia đình không được áp dụng và danh mục các phong tục, tập quán tốt
đẹp được khuyến khích và phát huy; tập hợp các quy phạm pháp luật về các chế
tài đối với các trường hợp vi phạm trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình nói
chung và về tảo hôn nói riêng theo một hệ thống văn bản thống nhất, tránh tình
trạng tản mạn, gây khó khăn cho quá trình áp dụng.
KẾT LUẬN
Hiện nay, ở bất kì địa phương nào trên cả nước, từ nông thôn đến thành
thị, từ vùng núi đến đồng bằng, hiện tượng tảo hôn vẫn còn tồn tại khá phổ biến.
Hiện tượng này không chỉ gây ảnh hưởng đến chính bản thân những người vi
phạm mà còn ảnh hưởng đến toàn thể cộng đồng xã hội. Từ khi ban hành các
quy định nghiêm cấm tảo hôn, xử phạt đối với các trường hợp vi phạm về độ
tuổi kết hôn... thì tình trạng tảo hôn ở nước ta đã giảm thiểu rõ rệt. Tuy nhiên, do
nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, nạn tảo hôn vẫn là một vấn đề xã hội gây
nhiều nhức nhối. Chúng ta cần phải tìm ra được những giải pháp hữu hiệu để
hạn chế, đẩy lùi, tiến tới bài trừ nạn tảo hôn ở Việt Nam, từ đó tạo ra những tiền
đề thuận lợi để phát triển đất nước nói chung và thực hiện mục tiêu xây dựng
đời sống văn hoá mới, xây dựng gia đình mới hiện đại. Để làm được điều đó cần
phải có sự quan tâm của toàn xã hội, của Đảng và nhà nước, của các cấp các
ngành, trong đó đặc biệt chú ý tới vấn đề giáo dục, tuyên truyền để thay đổi
nhận thức của mỗi cá nhân về tảo hôn và trách nhiệm của mỗi người trong cuộc
đấu tranh đẩy lùi và loại bỏ triệt để nạn tảo hôn khỏi đời sống xã hội.
15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
***
1.
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hôn nhân và gia đình, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2011;
2.
Đoàn Thị Thu Hằng, Khóa luận tốt nghiệp: Vấn đề tảo hôn ở Việt Nam
hiện nay - nguyên nhân và giải pháp loại trừ, trường Đại Học Luật Hà Nội,
2010;
3.
Ngọc Lan, Tình hình tảo hôn ở các tỉnh miền núi cần sớm có giải pháp,
Báo dân tộc và Phát triển – cơ quan ngôn luận của Ủy ban Dân tộc ngày
04/05/2009;
4.
Hà An, Cần sửa những quy định về độ tuổi kết hôn và hình thức xử phạt
khi vi phạm độ tuổi kết hôn, báo Công an Nhân dân ngày 19/08/2005;
5.
Sơn Tùng, Tảo hôn – vấn đề nhức nhối tại Yên Bái và những giải pháp,
Báo Yên Bái Online ngày 01/09/2007;
6.
Mai Tâm, Nạn tảo hôn ở Sơn La: Những điều vui buồn, Báo Công an Nhân
dân điện tử, 26/08/2012;
7.
Huy Anh, Đừng bắt trẻ con sớm thành người lớn, bài viết trên trang
baomoi.com ngày 05/05/2012;
8.
Nguyễn Đức Hưng, Trao đổi về vấn đề xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực hôn nhân và gia đình, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân;
16

Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét