23 thg 3, 2016

Vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước

đại biểu, có cuộc từ 2-3 đại biểu) và cũng có rất ít thời gian để nghiên cứu sâu về vấn đề tham gia giám sát. Đặc biệt, việc giám sát văn bản quy phạm pháp luật đòi hỏi đại biểu phải có kiến thức khá toàn diện về pháp luật, về lĩnh vực mà văn bản pháp luật đó điều chỉnh và cần có cơ chế huy động chuyên gia giúp việc, song với điều kiện và cơ chế hiện nay thì rất khó thực hiện được chức năng này. + Cơ quan, tổ chức có chức năng, giám sát chưa thực hiện đầy đủ, đúng đắn vai trò, trách nhiệm, quyền hạn của mình theo các quy định của pháp luật. Hệ thống tổ chức, các phương thức giám sát chậm đổi mới, không thích ứng kịp với yêu cầu và sự phát triển đa dạng, phức tạp trong đời sống xã hội. Đội ngũ cán bộ làm công tác giám sát chưa đáp ứng yêu cầu cả về số lượng và trình độ, năng lực, bản lĩnh, trong đó có một bộ phận suy giảm, tha hoá phẩm chất đạo đức. + Các thể chế, quy chế, quy trình làm cơ sở pháp lý cho hoạt động giám sát còn thiếu hoàn chỉnh, cụ thể, một số quy định về chức năng của các cơ quan, tổ chức không hợp lý nhưng chậm được sửa đổi dẫn đến sự chồng chéo về thẩm quyền và hoạt động ở một số lĩnh vực, khu vực gây khó khăn, phiền hà cho các cơ quan, đơn vị là đối tượng của giám sát, mặt khác có một số lĩnh vực, khu vực bỏ trống, thiếu sự giám sát. + Một số cơ quan có chức năng giám sát song quyền hạn rất hạn chế (Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn, kiến nghị), thực tế cho thấy hiệu quả các chất vấn, kiến nghị thường rất thấp vì nó phụ thuộc vào thái độ tiếp thu và biện pháp thực hiện các kiến nghị của thủ trưởng các cơ quan, đơn vị được Hội đồng nhân dân kiến nghị. + Hoạt động giám sát dựa trên cơ sở bảo đảm tính thống nhất của quyền lực nhà nước từ Trung ương đến địa phương, cơ sở, nhưng do sự phân tán của nền hành chính nên các tổ chức giám sát ở các cấp gần như lệ thuộc hoàn toàn vào cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp. + Nhiều văn bản quy phạm pháp luật hiện nay xung đột pháp lý nên lúng túng trong xử lý từng vụ việc. Tình trạng các văn bản pháp luật, nhất là các văn bản hướng dẫn thi hành luật thiếu ổn định, thay đổi khá nhanh trong một thời gian ngắn làm cho hoạt động giám sát khó thực hiện được việc xem xét, đánh giá một cách có hệ thống và có chất lượng. + Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đông nhân dân chưa quy định cụ thể về chế tài trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức hữu quan trong xem xét, giải quyết các kiến nghị sau giám sát của ĐBQH và Đoàn ĐBQH. IV. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ TIẾP TỤC HOÀN THIỆN CƠ CHẾ GIÁM SÁT CỦA CƠ QUAN QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC. Một là, hoạt động giám sát của ĐBQH, ĐBHĐND phải xuất phát từ đời sống của dân, từ những yêu cầu bức xúc trong phát triển kinh tế xã hội. Muốn nâng cao hiệu quả giám sát, thì phải chủ động cải tiến phương thức tổ chức hoạt động giám sát, tập trung giám sát những vấn đề theo chương trình và những vấn đề cử tri đang bức xúc, có chú ý hình thức giám sát trực tiếp tại cơ sở. Nội dung giám sát càng cụ thể, hiệu quả thu lại sẽ càng thiết thực. Hai là, tăng cường mối quan hệ phối hợp hoạt động giữa Đoàn ĐBQH với Thường trực HĐND, Uỷ ban MTTQVN Thành phố là yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh tổng hợp nâng cao chất lượng, hiệu quả giám sát, khắc phục chồng chéo trong giám sát. Ba là, để ĐBQH nắm rõ nội dung của vấn đề cần giám sát, cần phải có bộ phận giúp việc đủ mạnh để tham mưu, thu thập thông tin về những nội dung giám sát, kiểm tra tính xác thực của thông tin. Trước mỗi cuộc giám sát, tiến hành thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau để cung cấp cho ĐBQH, ĐB HĐND những nội dung chủ yếu có liên quan đến vấn đề cần giám sát. Từ đó xác định những nội dung trọng tâm, những vấn đề bức xúc cần được đặt ra để yêu cầu cơ quan được giám sát giải trình, làm rõ. Trong điều kiện bộ máy chuyên viên giúp việc còn ít, năng lực còn hạn chế, thì việc mời thêm các chuyên gia có kiến thức, có năng lực tham gia tư vấn nội dung hoạt động giám sát của Đoàn ĐBQH, ĐBHĐND là rất cần thiết để nâng cao hiệu quả và chất lượng giám sát. Bốn là, việc giám sát không chỉ dựa trên những chỉ tiêu cụ thể mà quan trọng hơn là phải giám sát từ những giải pháp, giám sát quá trình tổ chức thực hiện để làm cơ sở tham gia cùng Quốc hội, Hội đông nhân dân thảo luận và ban hành Nghị quyết, đề xuất việc xây dựng hay điều chỉnh những văn bản luật phù hợp, đi vào cuộc sống. Các khâu này phải đồng bộ, chặt chẽ. Năm là, kiến nghị sau giám sát cần cụ thể, tránh chung chung, chỉ ra được những mặt tồn tại, hạn chế, nguyên nhân và yêu cầu khắc phục. Trong giám sát giải quyết khiếu nại, tố cáo, đại biểu Quốc hội, Hội đông nhân dân phải thể hiện rõ chính kiến của mình khi chuyển đơn thư của công dân đến cơ quan chức năng giải quyết. Sáu là, vấn đề hậu giám sát có ý nghĩa rất quan trọng. Việc thường xuyên xem xét tiến trình giải quyết sau giám sát là yêu cầu rất quan trọng để nâng cao hiệu lực, hiệu quả giám sát. C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ. Cùng với các chức năng lập hiến, lập pháp và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, giám sát là một trong những chức năng chủ yếu của Quốc hội. Từ những phân tích ở trên cho thấy hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước giữ một vai trò rất quan trọng. Cơ quan quyền lực nhà nước cần phải tiếp tục hoàn thiện hơn nữa cơ chế giám sát, phát huy những mặt tích cực đã đạt được để thực hiện tốt chức năng giám sát của mình. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 1. Trường Đại học Luật Hà Nội, giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội 2007, 2008. 2. Trường Đại học Luật Hà Nội, giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb, Công an nhân dân, Hà Nội 2010. 3. Trường Đại học Luật Hà Nội, giáo trình Hiến pháp, Nxb, Công an nhân dân, Hà Nội 2010. 4. Hiến pháp của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam năm 1992 ( sửa đổi bổ sung năm 2001). 5. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008. 6. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của hội đông nhân dân, ủy ban nhân dân năm 2004. 7. Luật khiếu nại tố cáo năm 1998 ( sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008 ). 8. Luật giao thông đường bộ 2008. 9. Nghị định của Chính Phủ số 134/ 2010/ NĐ – CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ. 10. Luật tổ chức Quốc hội năm 2003. 11. Luật tổ chức Chính Phủ năm 2001. 12. Luật tổ chức hội đông nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2003. 13. Trang wep: http://www. google.com http://www. luatvietnam.com.vn http://www. westlaw.com. http:// www. vietlaw.gov.vn.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét