
23 thg 3, 2016
Thực trạng điều hành Nghiệp vụ thị trường mở của NHNN Việt Nam
c. Trái phiếu Chính phủ
Trái phiếu chính phủ là giấy nhận nợ dài hạn do Chính phủ phát hành nhằm mục
đích huy động vốn cho ngân sách. Mặc dù là GTCG dài hạn có thời hạn lên đến 10-30
năm nhưng trái phiếu Chính phủ được sử dụng khá rộng rãi trong các giao dịch NVTTM
ở một số nước bởi tính an toàn, ổn định trong phát hành và khối lượng phát hành thường
lớn, có khả năng tác động trực tiếp giá cả trên thị trường tài chính.
d. Trái phiếu Chính quyền địa phương
Tương tự như trái phiếu Chính phủ, nhưng trái phiếu chính quyền địa phương khác
về thời hạn và các điều kiện ưu đãi về thuế thu nhập từ trái phiếu và thường do các chính
quyền địa phương lớn phát hành. Sự can thiệp của NHTW thông qua việc mua bán loại
trái phiếu này cũng tương tự như trái phiếu Chính phủ.
e. Chứng chỉ tiền gửi
Chứng chỉ tiền gửi (CD) là giấy nhận nợ của ngân hàng hay tổ chức tài chính phi
ngân hàng phát hành, xác nhận một món tiền đã được gửi vào ngân hàng với một kỳ hạn
và lãi suất nhất định. Thời hạn của CD có thể từ 7 ngày đến 7 năm nhưng thường là ngắn
hạn. CD được sử dụng khá phổ biến trên thị trường tiền tệ do các nhà đầu tư có thể dễ
dàng chuyển đổi thành tiền khi cần thiết mà không phải rút tiền gửi trước hạn.
3.2.
Chủ thể tham gia NVTTM
Thị trường mở là một thị trường có tính chất mở nên các thành viên thị trường rất đa
dạng với các mục đích khác nhau. Nhìn chung, mọi nhà đầu tư đều có thể là đối tác giao
dịch với NHTW trong các giao dịch NVTTM nếu thoả mãn những tiêu chuẩn cụ thể của
NHTW ở các nước. Các tiêu chuẩn này nhằm mục đích: (i) Các đối tác phải đảm bảo độ
tin cậy nhất định và (ii) Việc giao dịch với các đối tác phải có hiệu quả xét trên khía cạnh
can thiệp của NHTW. Thông thường, thành viên NVTTM bao gồm:
a. Ngân hàng trung ương
NHTW là người tổ chức, xây dựng và vận hành hoạt động của thị trường mở theo
các mục tiêu CSTT. NHTW là người quyết định lựa chọn sử dụng các loại NVTTM và
tần suất sử dụng NVTTM. NHTW tham gia thị trường thông qua việc mua bán các
GTCG nhằm tác động đến dự trữ của hệ thống ngân hàng để đảm bảo khả năng thanh
toán và gián tiếp tác động đến các lãi suất thị trường theo mục tiêu CSTT. NHTW cũng là
người can thiệp thị trường khi cần thiết thông qua thực hiện chức năng người cho vay
cuối cùng nhằm kiểm soát tiền tệ, đảm bảo đủ phương tiện thanh toán cho các TCTD
cũng như nhu cầu tín dụng của nền kinh tế.
Như vậy, NHTW tham gia thị trường mở không phải vì mục tiêu kinh doanh mà để
quản lý, chi phối, điều tiết thị trường làm cho CSTT được thực hiện theo các mục tiêu
xác định của nó.
b. Các ngân hàng thương mại
Các NHTM là thành viên chủ yếu tham gia NVTTM của NHTW và là đối tác quan
trọng của NHTW xét trên 2 phương diện độ tin cậy và tính hiệu quả. Các NHTM tham
gia thị trường nhằm điều hoà vốn khả dụng để đảm bảo khả năng thanh toán và đầu tư
các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để hưởng lãi.
Sự tham gia của các NHTM trong các giao dịch NVTTM có ý nghĩa quan trọng xét
trên góc độ hiệu quả CSTT do: (i) NHTM là trung gian tài chính lớn nhất, có mạng lưới
hoạt động rộng. NHTM đóng vai trò quan trọng trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế,
nhất là ở các nước đang phát triển; (ii) Hơn nữa NHTM vừa là người đi vay, vừa là người
cho vay trên thị trường tiền tệ.
c. Các tổ chức tài chính phi ngân hàng
Tại một số quốc gia, các tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng được tham gia
NVTTM. Các công ty bảo hiểm, công ty tài chính, quỹ đầu tư, hội tiết kiệm … coi thị
trường mở như là nơi kiếm thu nhập thông qua việc sử dụng vốn nhàn rỗi để mua bán các
GTCG.
d. Các nhà giao dịch sơ cấp
Các nhà giao dịch sơ cấp tham gia vào NVTTM với tư cách là người trung gian
trong việc mua bán các GTCG giữa NHTW và các đối tác khác. Các nhà giao dịch sơ cấp
có thể là các NHTM, công ty chứng khoán, công ty tài chính. Thực tế ở nhiều nước, 70%
giao dịch can thiệp của NHTW trên thị trường mở được thực hiện thông qua các nhà giao
dịch sơ cấp. Khi đó, NHTW chỉ thực hiện mua bán GTCG với các nhà giao dịch sơ cấp.
Và để thực hiện được vai trò này, các nhà giao dịch sơ cấp phải có nguồn vốn đủ mạnh
đáp ứng yêu cầu quy định của NHTW và phải sẵn sàng thực hiện vai trò người tạo lập thị
trường trong tất cả các phiên đấu thầu tín phiếu kho bạc.
4. Nội dung hoạt động thị trƣờng mở
Để hiểu được nội dung hoạt động thị trường mở ta sẽ tìm hiểu nó trên các khía cạnh:
phương thức mua bán giấy tờ có giá và phương thức đấu thầu.
4.1.
Phương thức mua bán trên thị trường mở
a. Mua - bán hẳn:
-
Là việc mua bán và chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ có giá từ bên bán cho bên
mua và không kèm theo thoả thuận mua, bán lại.
Với phương thức này, chỉ được thực hiện với các loại hàng hoá mà thời hạn còn lại
(tức thời gian thanh toán còn lại của giấy tờ có giá ngắn hạn tính từ ngày giấy tờ có giá
được mua, bán thông qua nghiệp vụ TTM đến hạn thanh toán ) tối đa theo quy định trong
từng thời kỳ(ở Việt Nam hiện nay là 90 ngày).
Điều kiện áp dụng: Khi NHTW dự báo thấy cung tiền tệ cần được tiếp tục điều
chỉnh thì NHTW ngay lập tức mua vào hoặc bán ra chứng khoán theo hình thức mua đứt
bán đoạn (mua bán hẳn).
b. Mua bán có kỳ hạn (giao dịch có thời hạn):
-
Là việc bên bán bán và chuyển giao giấy tờ có giá cho bên mua đồng thời cam kết
mua lại và nhận lại quyền sở hữu giấy tờ có giá đó sau thời gian nhất định.
Điều kiện áp dụng: Nếu dấu hiệu về trạng thái khối lượng thị trường chỉ cần tạm
thời thay đổi dự trữ tiền tệ, hoặc dự trữ trong thời gian tới là thiếu ổn định thì NHTW
thực hiện các giao dịch tác động lên cung tiền tệ bằng các hợp đồng mua lại đối với
trường hợp muốn tăng dự trữ tạm thời hoặc bằng các giao dịch mua bán đảo ngược khi
muốn giảm dự trữ tam thời.
-
Các loại hợp đồng mua bán có kỳ hạn
Hợp đồng mua lại: khi cần bổ sung tăng dự trữ tạm thời NHTW tham gia trực tiếp
vào việc ký hợp đồng mua lại chứng khoán của nhà môi giới, tức là NHTW mua chứng
khoán của nhà môi giới; còn nhà môi giới đồng ý mua lại chứng khoán đó vào một ngày
nhất định với một mức giá nhất định. Vì dự trữ bổ sung này sẽ dừng lại một cách tự động
khi hợp đồng mua lại đến hạn nên nghiệp vụ này chỉ là cách bơm thêm dự trữ vào hệ
thống tiền gửi tạm thời mà thôi. Thời gian thực hiện hợp đồng mua lại thường là 7 ngày.
Bán- mua đảo ngược: khi cần giảm khối lượng tiền tệ NHTW thực hiện giao dịch
theo hình thức bán- mua đảo ngược với các nhà môi giới, bằng một hợp đồng bán ngay
chứng khoán cho nhà môi giới và một hợp đồng đảo ngược để mua lại tiếp theo các
chứng khoán từ nhà môi giới đó. Thời hạn thực hiện hợp đồng thường là 7 ngày.
4.2.
Phương thức đấu thầu trên thị trường mở
Các hình thức mua bán trên thị trường mở là mua bán hẳn và mua bán có thời hạn
đều được thực hiện trên phòng giao dịch thông qua phương thức đấu thầu. Có hai phương
thức mà NHTW áp dụng để đấu thầu là đấu thầu lãi suất và đấu thầu khối lượng.
a. Phương thức đấu thầu khối lượng
Là việc xác định khối lượng trúng thầu của các tổ chức tín dụng tham gia nghiệp
vụ TTM trên cơ sở khối lượng dự thầu của các tổ chức tín dụng, khối lượng giấy tờ có giá
mua hoặc bán và lãi suất do NHTW thông báo cụ thể như sau:
-
NHTW thông báo cho các TCTD mức lãi suất và khối lượng các loại giấy tờ có giá
cần mua hoặc cần bán (NHTW có thể không thông báo khối lượng cần mua hoặc cần
bán).
-
Các đơn vị thành viên tham gia dự thầu khối lượng các loại giấy tờ cần mua hoặc cần
bán theo mức lãi suất do NHTW công bố.
Việc phân bổ thầu được tiến hành thực hiện như sau: Trước hết toàn bộ số lượng
đăng ký dự thầu được cộng lại với nhau. Nếu tổng khối lượng đặt thầu nhỏ hơn hoặc
bằng khối lượng NHTW chào mua/chào bán thì toàn bộ các đơn dự thầu đều được phân
bổ theo khối lượng đặt thầu. Nếu tổng khối lượng đặt thầu lớn hơn khối lượng NHTW
chào mua/chào bán thì khối lượng trúng thầu của từng thành viên được phân bổ tỷ lệ
thuận với khối lượng đặt thầu của thành viên đó. Các đơn dự thầu sẽ được phân bổ như
sau:
n
Tỷ lệ % phân bổ thầu: k = A/ bi
trong đó:
i 1
- A: là khối lượng NHTW chào mua/chào bán
- n: là tổng số thành viên tham gia dự thầu
- bi là khối lượng đặt thầu của thành viên thứ i
-k
là tỷ lệ phân bổ thầu
Trên cơ sở xác định được tỷ lệ k, khối lượng trúng thầu của thành viên thứ i (Wi)
được xác định như sau:
Wi = k x bi
b. Phương thức đấu thầu lãi suất
- Là việc xác định lãi suất trúng thầu của các TCTD tham gia NVTTM trên cơ sở khối
lượng dự thầu của các TCTD, khối lượng giấy tờ có giá mà NHTW cần mua hoặc cần
bán.
Theo phương thức đấu thầu lãi suất thì các thành viên tham gia tự đăng ký số tiền
ứng với mỗi mức lãi suất do tự mình lựa chọn.
- Trường hợp NHTW cần cung ứng tiền thêm vào lưu thông thông qua việc mua
GTCG, các đơn dự thầu được sắp xếp theo thứ tự và được phân bổ theo các mức lãi suất
từ cao xuống thấp. Nghĩa là những đơn dự thầu ứng với lãi suất cao sẽ được ưu tiên phân
bổ trước cho đến khi khối lượng phân phối được sử dụng hết. Nếu tại mức lãi suất thấp
nhất được chấp nhận, khối lượng đăng ký dự thầu lớn hơn khối lượng được phân phối thì
quá trình phân bổ như sau:
Gọi: - A: là khối lượng NHTW chào mua/chào bán
- rt : là mức lãi suất thứ t được đăng ký
- b(rt)i là khối lượng đặt thầu của thành viên thứ i ứng với mức lãi suất rt
- b(rt) là tổng khối lượng đặt thầu của các thành viên ứng với mức lãi suất rt
- rm là mức lãi suất cuối cùng được chấp nhận.
Đối với trường hợp NHTW đấu thầu để bơm thêm vốn khả dụng cho hệ thống ngân
hàng thì: r1 rt rm
- k(rm) là tỷ lệ % trúng thầu được phân bổ tại mức lãi suất cuối cùng
m 1
Ak(rm) =
b( r )
t 1
t
B(rm)
Trên cơ sở xác định được tỷ lệ k(rm), khối lượng trúng thầu của thành viên thứ i
(Wi) tại mức lãi suất rm được xác định như sau:
W(rm) = k(rm) x b(rm)
- Trường hợp NHTW cần hút tiền từ lưu thông về thông qua việc bán GTCG thì các
quy trình diễn ra ngược lại.
Trên thế giới có hai phương thức đấu thầu lãi suất là đấu thầu theo kiểu Mỹ và đấu
thầu theo kiểu Hà Lan. Nếu đấu thầu theo kiểu Mỹ thì tất cả các mức lãi suất đã đăng ký
trong phạm vi đặt thầu đều thực hiện theo đúng mức lãi suất đã đăng ký. Nếu đấu thầu
theo kiểu Hà Lan thì tất cả lượng đặt thầu được xác định cùng mức lãi suất đạt thầu.
5. Vai trò của nghiệp vụ thị trƣờng mở
5.1.
Đối với Ngân hàng trung ương
Để thực hiện nhiệm vụ ổn định giá trị đồng tiền, NHTW đã xây dựng và thực thi các
công cụ CSTT nhằm đưa tiền ra và rút tiền về từ lưu thông theo tín hiệu thị trường. Trong
đó, NVTTM là công cụ CSTT gián tiếp quan trọng nhất tại nhiều quốc gia làm thay đổi
cung - cầu tiền tệ dẫn đến thay đổi lãi suất trên thị trường tiền tệ. Thông qua việc mua
bán GTCG tại thị trường mở, NHTW có thể mở rộng hoặc thu hẹp khối lượng tiền dự trữ
trong hệ thống ngân hàng và tác động một cách tốt nhất đến cơ số tiền tệ, lượng tiền cung
ứng. Như vậy, NVTTM đã tạo điều kiện cho NHTW hạn chế sử dụng các công cụ mang
tính trực tiếp trong điều hành CSTT.
Bên cạnh mục đích điều tiết vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng, thông qua mua
bán GTCG trên thị trường mở, NHTW còn cấp tín hiệu cho thị trường về định hướng
điều hành CSTT trong tương lai là nới lỏng hay thắt chặt. Đặc biệt khi thực hiện NVTTM
thường xuyên và hiệu quả, lãi suất thị trường mở có ý nghĩa rất quan trọng trong việc
định hướng, chỉ đạo lãi suất thị trường và qua đó NHTW có thể hạn chế những biến động
của lãi suất thị trường.

Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét