24 thg 3, 2016

Thực trạng nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam hiện nay

Thông qua hiệp hội nuôi con nuôi và các gia đình xin con nuôi Việt Nam, nhiều gia đình nước ngoài khác cũng muốn đến Việt Nam để xin con nuôi. Họ cho rằng, thủ tục giải quyết nuôi con nuôi ở Việt Nam không mất nhiều thời gian như ở nhiều nước; cơ quan nhà nước đều bảo đảm sự thuận lợi, an toàn và họ rất có thiện cảm với trẻ em Việt Nam. Chính điều này đã làm nảy sinh nhiều vấn đề bất cập, như: cò mồi, môi giới trung gian, trục lợi… gây khó khăn cho hoạt động quản lí. d. Chưa bảo đảm ưu tiên việc nuôi con nuôi trong nước trước khi cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài Trước khi Luật nuôi con nuôi được ban hành, ở Việt Nam vẫn thiếu các quy định đảm bảo sự gắn kết giữa nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi quốc tế theo hướng ưu tiên nuôi con nuôi trong nước; nuôi con nuôi nước ngoài chỉ được coi là biện pháp thay thế cuối cùng khi không thể tìm được mái ấm cho trẻ em ở trong nước. Tuy nhiên, các cơ quan và cơ sở nuôi dưỡng trẻ em chưa thực sự quan tâm đến việc này, chỉ chú ý vào việc giải quyết cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài nếu có hồ sơ mà chưa chú ý đến việc thu xếp mái ấm gia đình cho trẻ em ở trong nước. 3.2.2. Về quy định của pháp luật và công tác triển khai thực hiện a. Chưa quản lý chặt chẽ hoạt động của các Văn phòng con nuôi nước ngoài tại Việt Nam Hiện tại, trên phạm vi cả nước có 69 Văn phòng con nuôi nước ngoài được cấp phép hoạt động, trong đó 42 văn phòng của Hoa Kỳ. Nhiều tổ chức con nuôi sang Việt Nam mang tính tự phát, không có sự kiểm soát và giới thiệu của cơ quan trung ương. Việc số đông các tổ chức con nuôi vào Việt Nam hoạt động đã tạo ra sự cạnh tranh, làm cho tình hình càng trở nên phức tạp, khó kiểm soát. Pháp luật về nuôi con nuôi, trình tự cấp phép và quản lý tổ chức nuôi con nuôi của các nước lại rất khác nhau. Điều này gây khó khăn cho các cơ quan của nước ta trong việc đánh giá, xem xét cấp phép và quản lý. b. Thủ tục, trình tự giải quyết việc nuôi con nuôi còn bất cập 11 Thứ nhất, về thủ tục giới thiệu trẻ em làm con nuôi: Việc quản lý các dữ liệu về trẻ em có đủ điều kiện để giới thiệu làm con nuôi do cơ sở nuôi dưỡng trực tiếp thực hiện và gửi về Bộ Tư pháp. Nhưng trên thực tế, đó mới chỉ là sự cung cấp danh sách về số lượng và họ tên trẻ em, chưa kèm theo hồ sơ đầy đủ để bảo đảm trẻ em đã có đủ điều kiện để cho làm con nuôi. Hơn nữa, hoạt động này cũng chỉ là hình thức để thông báo, bởi các cơ sở đã phối hợp với các tổ chức con nuôi nước ngoài giới thiệu trẻ em cho các gia đình xin nhận con nuôi. Thứ hai, việc kiểm tra hồ sơ của trẻ em được giới thiệu làm con nuôi cũng chỉ được thực hiện có tính hình thức: Nhiều địa phương giao trách nhiệm chuẩn bị hồ sơ trẻ em cho cơ sở nuôi dưỡng và chuyển cho Sở Tư pháp kiểm tra nhưng cũng chỉ về hình thức rồi gửi Cục Con nuôi. Một số địa phương chuyển hồ sơ của trẻ em cho cơ quan Công an tỉnh xác minh nhưng cũng chỉ cho ý kiến dưới góc độ an ninh, chưa chú ý đến việc xác minh làm rõ về nguồn gốc thực tế. Sau khi có ý kiến của cơ quan Công an, thì Sở Tư pháp chuyển hồ sơ cho Cục Con nuôi. Vì vậy, nếu xảy ra sai sót về hồ sơ của trẻ em, thì không cơ quan nào chịu trách nhiệm hoàn toàn, mà có sự liên đới. c. Thiếu sự đồng bộ trong cơ chế phối hợp giữa các cơ quan liên quan Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc giải quyết hồ sơ nuôi con nuôi thiếu đồng bộ. Đó là sự hạn chế trong phối hợp giữa các cơ quan thuộc chính quyền địa phương. Có nơi, chính quyền địa phương còn thông đồng với trung gian, môi giới trong việc thu gom trẻ em, làm sai lệch hồ sơ của trẻ em để trục lợi. Ở trung ương, thiếu sự hợp tác thường xuyên và chặt chẽ giữa Bộ Tư pháp và Bộ Lao động, Thương binh – Xã hội trong việc chỉ đạo vấn đề liên quan trong lĩnh vực con nuôi quốc tế. d. Thiếu sự minh bạch trong việc tiếp nhận và sử dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo của tổ chức, cá nhân nước ngoài Các khoản hỗ trợ nhân đạo phần lớn do cơ sở nuôi dưỡng tiếp nhận, quản lý, sử dụng và có trách nhiệm báo cáo cơ quan có thẩm quyền của địa phương. Tuy nhiên, cơ chế tiếp nhận, quản lý và sử dụng các khoản hỗ trợ này khá lỏng lẻo. 12 Các báo cáo của cơ sở nuôi dưỡng về việc sử dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo này chưa đầy đủ và chính xác. Công tác quản lý các tổ chức con nuôi nước ngoài trong công tác hỗ trợ nhân đạo cũng còn nhiều hạn chế. Cần tạo ra sự minh bạch hoá trong vấn đề này để bảo đảm việc sử dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo đúng mục đích vì lợi ích của trẻ em e. Công tác báo cáo chưa thực hiện nghiêm túc, gây khó khăn trong việc thống kê, hoạch định chính sách. Công tác kiểm tra, thanh tra chưa thường xuyên, đồng bộ. f. Tình trạng ứ đọng hồ sơ xin con nuôi và quá tải trẻ em tại các trung tâm bảo trợ xã hội địa phương Nhiều trung tâm nuôi dưỡng bảo trợ xã hội địa phương đang ở tình trạng quá tải, gặp nhiều khó khăn trong việc đón nhận và chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em. Trong khi đó, rất nhiều hồ sơ của người nước ngoài xin nhận con nuôi lại đang ứ đọng. Chính điều này đã làm chậm cơ hội có mái ấm gia đình của nhiều trẻ em bất hạnh trong khi hiện tại chúng ta không có đủ điều kiện và khả năng tạo dựng cho các em cuộc sống ổn định trong nước. g. Hạn chế về cơ sở vật chất tại cơ sở nuôi dưỡng Hiện nay, phần lớn các cơ sở nuôi dưỡng trẻ đều gặp khó khăn về cơ sở vật chất, cán bộ, kinh phí nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ. Vì vậy, việc tiếp nhận trẻ bị bỏ rơi vào các trung tâm này còn hạn chế, chưa đáp ứng đủ yêu cầu. Hơn nữa, các cháu được nuôi dưỡng tại các trung tâm này hoặc là có sức khỏe yếu, hoặc bị tàn tật, một số trẻ có sức khỏe bình thường thì không đủ điều kiện về mặt thủ tục pháp lý để cho làm con nuôi người nước ngoài. Bên cạnh đó, có rất nhiều gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, có nguyện vọng cho con làm con nuôi nước ngoài nhưng không thể được giải quyết và các trung tâm bảo trợ xã hội cũng không tiếp nhận những đối tượng này. 4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC VÀ HOÀN THIỆN 4.1. Các giải pháp tổ chức – kỹ thuật 13 Cần có sự phối hợp chặt chẽ với cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài hoặc cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự của nước ngoài tại Việt Nam để tìm hiểu rõ các quy định pháp luật của các nước về các giấy tờ có trong hồ sơ của người xin nhận con nuôi để có các quy định phù hợp và chặt chẽ hơn. Xem xét, bổ sung quy định đối với các nước mà khi cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy phép nuôi con nuôi có kèm theo các giấy tờ của người xin nhận con nuôi đầy đủ. Nhà nước cần chú trọng công tác bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác thụ lý và giải quyết hồ sơ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Nhà nước cần xem xét để sớm thành lập thêm các cơ sở nuôi dưỡng trẻ em, đồng thời hỗ trợ kinh phí, tăng cường trang bị cơ sở vật chất cho các trung tâm nuôi dưỡng trẻ mồ côi. Cần tăng thêm thẩm quyền cho Cục Con nuôi quốc tế để cơ quan này có đủ thẩm quyền thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế, mà trước hết cần phải phân định rõ thẩm quyền quyết định cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài giữa Cục Con nuôi quốc tế và UBND cấp tỉnh. Có thể phân định thêm chức năng quyết định việc cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài cho Cục Con nuôi quốc tế. 4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật Nhà nước cần sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật liên quan đến vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài để làm cho pháp luật Việt Nam hài hoà với thông lệ quốc tế. Cần mở rộng đối tượng trẻ được xin đích danh từ gia đình nhằm đáp ứng được nguyện vọng của cả người cho và người nhận con nuôi. Ngoài ra, Nhà nước cần đề ra quy chế hoạt động chung cho các tổ chức nuôi con nuôi, trên cơ sở đó các tổ chức này sẽ đề ra cho mình một quy chế phù hợp với quy chế chung nhằm thống nhất quản lý và hướng các tổ chức này hoạt động theo đúng pháp luật, tránh được tình trạng hoạt động cạnh tranh không lành mạnh giữa tổ chức con nuôi nước ngoài của các quốc gia, gây tiêu cực, phản tác dụng trong thực tế. 14 4.3. Các giải pháp khác Tăng cường tổ chức hội nghị trao đổi kinh nghiệm giữa các địa phương làm tốt công tác giải quyết cho người nước ngoài nhận nuôi con nuôi Việt Nam. Các cơ quan có thẩm quyền cần tăng cường kiểm tra, thực hiện đúng các quy định về việc xác định nguồn gốc của trẻ em, nhất là trẻ bị bỏ rơi, chống mọi biểu hiện làm sai lệch nguồn gốc trẻ em, ngăn ngừa sự cấu kết, tiếp tay với những người môi giới bất hợp pháp để đưa trẻ em có nguồn gốc không rõ ràng vào cơ sở nuôi dưỡng để cho làm con nuôi người nước ngoài. Mở rộng việc kí kết hiệp định song phương về hợp tác nuôi con nuôi với các nước để có cơ chế hợp tác quốc tế nhằm bảo vệ trẻ em Việt Nam được làm con nuôi, tránh cho trẻ em Việt Nam mọi rủi ro không đáng có khi làm con nuôi ở nước ngoài và tạo điều kiện cho công dân các nước được nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi. Nhà nước cần xem xét để sớm thành lập thêm các cơ sở nuôi dưỡng trẻ em, đồng thời hỗ trợ kinh phí, tăng cường trang bị cơ sở vật chất cho các trung tâm nuôi dưỡng trẻ mồ côi suy dinh dưỡng để các trung tâm này có đủ điều kiện tiếp nhận trẻ vào trung tâm, đảm bảo “đầu ra” cho công tác giải quyết cho người nước ngoài nhận con nuôi. KẾT LUẬN Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là một chế định quan trọng trong pháp luật hôn nhân và gia đình, không chỉ trong pháp luật quốc gia mà có trong pháp luật quốc tế. Trong thời gian qua,Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong việc giải quyết vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, vẫn còn xuất hiện những bất cập, những hạn chế cần phải xử lí, loại bỏ. Hoàn thiện và kiện toàn về quy định pháp luật, về công tác tổ chức thực hiện đang là một điểm nóng cần lưu tâm nhằm giải quyết triệt để những hạn chế này. 15 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO *** 1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, Nxb. CAND, 2011; 2. Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2000; 3. Luật nuôi con nuôi năm 2010; 4. Nghị định 19/2011/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Nuôi con nuôi năm 2000; 5. Nguyễn Thanh Huyền, Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam: Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2010; 6. Phạm Thùy Dương, Pháp luật Viêt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài – thực trạng và phương hướng hoàn thiện: Luận văn thạc sĩ Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội, 2011; 7. Nguyên Bình Nhưỡng, Chế định nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, bài viết trên trang báo của Sở Tư pháp Hà Nội, 26/07/2011; 8. Các trang web: http://google.com.vn http://vanban.chinhphu.vn/ http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com 16

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét