
19 thg 3, 2016
Những giải pháp mà Chính phủ Việt Nam đã thực hiện nhằm ngăn chặn suy giảm và kích thích kinh tế trước tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng và suy thoái toàn cầu
Về chính sách tiền tệ, đã điều chỉnh tăng tỷ giá USD/VND và hạ lãi suất cơ
bản. Đây là những chính sách cần thiết để góp phần vừa giảm chi phí vay vốn
cho doanh nghiệp vừa giúp cải thiện cán cân ngoại thương. Đồng thời, cũng có
chính sách hỗ trợ lãi suất 4% đối với doanh nghiệp cho đến hết năm 2009. Bản
chất của việc bù 4% lãi suất là sử dụng công cụ tài khóa để thực hiện chính sách
tiền tệ. Số tiền bù chênh lệch lãi suất được lấy từ ngân sách, được Ngân hàng
Nhà nước triển khai thông qua hệ thống ngân hàng thương mại. Trong chính
sách này, ngân hàng thương mại đóng vai trò trung gian giữa Ngân hàng Nhà
nước và doanh nghiệp để thực hiện việc hỗ trợ lãi suất. Chủ động xử lý các tác
động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đối với hoạt động kinh
doanh, thực hiện đồng bộ các giải pháp để tăng cường huy động vốn, mở rộng
tín dụng có hiệu quả và phù hợp với quy định của pháp luật, áp dụng lãi suất cho
vay hợp lý trong điều kiện sản xuất, kinh doanh gặp khó khăn; cơ cấu lại thời
hạn trả nợ, miễn giảm lãi vốn vay, điều chỉnh giảm lãi suất cho vay và không
phạt quá hạn theo cơ chế hiện hành; tăng cường kiểm tra, kiểm toán nội bộ, thực
hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro. Yêu cầu các ngân hàng thương mại nhà
nước xem xét, chủ động giảm lãi suất cho vay các khoản nợ được ký kết trước
đây xuống mức lãi suất cho vay hiện hành để thúc đẩy cạnh tranh, giảm lãi suất
cho vay; phối hợp với Hiệp hội ngân hàng để chỉ đạo, khuyến khích các ngân
hàng thương mại thực hiện các giải pháp tăng cường huy động vốn, mở rộng tín
dụng có hiệu quả và phù hợp với quy định của pháp luật, giảm lãi suất cho vay
nhằm chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp.
Nhìn chung, phản hồi của các bộ, ngành và địa phương, doanh nghiệp và
người dân cho thấy, cơ chế hỗ trợ lãi suất do Thủ tướng Chính phủ ban hành là
giải pháp kích cầu phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế và được triển khai kịp
thời, có tác động thiết thực đối với các tổ chức và cá nhân để khắc phục khó
khăn, duy trì sản xuất, kinh doanh và tạo việc làm cho người lao động; đồng
thời, cũng hỗ trợ cho các ngân hàng thương mại khắc phục khó khăn, giữ được
an toàn hoạt động kinh doanh; cơ chế này nhận được sự đồng tình, ủng hộ rộng
rãi trong xã hội.
Cơ chế hỗ trợ lãi suất được ban hành và phổ biến một cách công khai, rõ
ràng, minh bạch và có tính giám sát cao đối với các ngân hàng thương mại thực
hiện và đối tượng thụ hưởng là tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất,
kinh doanh; các ngân hàng thương mại đã khẩn trương thực hiện bằng việc ban
11
hành cơ chế nghiệp vụ, làm tốt công tác thông tin truyền thông đối với khách
hàng vay.
Nhằm kích thích tăng trưởng, phòng ngừa suy giảm kinh tế, Chính phủ đã
sử dụng cả chính sách tài khóa và tiền tệ. Trong phạm vi của chính sách tài
khóa, kích thích tiêu dùng nội địa là một biện pháp quan trọng hàng đầu. Điều
đó đã giải tỏa trực tiếp khó khăn lớn nhất của doanh nghiệp trong giai đoạn hiện
nay, đó là sự sụt giảm nhu cầu của thị trường xuất khẩu. Phát triển thị trường nội
địa là một giải pháp được nhiều quốc gia trên thế giới lựa chọn trong bối cảnh
khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay. Để tăng sức mua trong nước, Chính phủ
đã quyết định giảm 50% thuế VAT đối với 19 nhóm mặt hàng và hoãn thu thuế
thu nhập cá nhân trong 5 tháng đầu năm 2009.
Nhờ việc triển khai nhanh, quyết liệt trong việc thực hiện các giải pháp cấp
bách trong Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP của Chính phủ, nhìn chung tình hình
kinh tế - xã hội 4 tháng đầu năm 2009 có dấu hiệu chuyển biến theo chiều hướng
tích cực: Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, tăng trưởng kinh tế được duy trì; cán cân
thanh toán cân đối; cán cân thương mại có xuất siêu (; điều hành lãi suất, tỷ giá
linh hoạt, phù hợp, giữ được an toàn hệ thống ngân hàng; lạm phát tiếp tục được
kiềm chế; nông nghiệp phát triển thuận lợi cả về trồng trọt, chăn nuôi và thủy
sản; giá trị sản xuất công nghiệp của một số ngành chủ yếu đã tăng lên. Nhiệm
vụ bảo đảm an sinh xã hội được tăng cường. Nhân dân đón Tết Nguyên đán Kỷ
Sửu tươi vui, đầm ấm, tiết kiệm; đồng tình ủng hộ các chủ trương, chính sách
của Đảng và Chính phủ. Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27-12-2008 về
Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững tại 61 huyện nghèo đang
triển khai tích cực.
4. Những hạn chế tồn tại trong nhóm các giải pháp chống suy giảm và
kích thích kinh tế của chính phủ
Cho đến thời điểm hiện nay, trọng tâm chính trong các biện pháp ứng phó
của Chính phủ là hỗ trợ lãi suất cho các doanh nghiệp. Ngày 23-1-2009, Chính
phủ công bố gói kinh tế lần một với lãi suất hỗ trợ 4%. Gói kích thích kinh tế lần
hai được Chính phủ công bố hôm 6-4 nhằm cấp bù lãi suất 4% cho doanh nghiệp
song hướng vào các nguồn vốn trung và dài hạn trong khoảng thời gian tối đa 24
tháng. Để ngăn chặn suy giảm kinh tế và kích cầu, gói hỗ trợ lãi suất 4% của
Chính phủ là một giải pháp tốt, tuy nhiên, trong quá trình triễn khai còn có một
số hạn chế cần khắc phục như sau:
12
Một là, hiện tượng đảo nợ đã diễn ra khi mà nhiều doanh nghiệp muốn
được vay hỗ trợ lãi suất để trả những khoản vay trước đó với lãi suất cao. Thực
tế, hoạt động đảo nợ có thể diễn ra theo nhiều kiểu, nhiều cách và ngân hàng
cũng khó kiểm soát được
Hai là, biện pháp hỗ trợ lãi suất khó đạt được kết quả mong đợi vì thị
trường của các sản phẩm xuất khẩu lớn của Việt Nam như dệt may, da giày,
thủy sản, gỗ đang thu hẹp nhiều do suy thoái kinh tế toàn cầu, nên các doanh
nghiệp trong các ngành này hầu như không mặn mà đối với các khoản vay này
bởi họ không muốn tăng thêm nợ. Do vậy, gói hỗ trợ lãi suất của Chính phủ khó
đạt được mục tiêu tạo việc làm, do những người mất việc chủ yếu tập trung vào
các doanh nghiệp xuất nhập khẩu có vốn đầu tư ngước ngoài.
Ba là, gói hỗ trợ lãi suất của Chính phủ dường như mới chỉ chú trọng vào
kích cầu sản xuất chứ chưa kích cầu tiêu dùng. Khuyến khích tiêu thụ sản phẩm
nên chăng cần thông qua biện pháp giảm thuế mà không sử dụng biện pháp hỗ
trợ lãi suất. Hỗ trợ lãi suất dễ làm tăng nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp để
doanh nghiệp duy trì sản xuất. Như vậy rất có thể làm tăng thêm ứ đọng sản
phẩm. Giảm thuế sẽ có tác dụng tăng thêm thu nhập cho doanh nghiệp giống
như hỗ trợ lãi suất mà không phải qua nhiều thủ tục phiền phức.
Bốn là, có cơ chế quản lý chưa được chặt chẽ : Chưa kiểm soát được
lượng vốn vay hỗ trợ lãi suất được sử dụng đúng mục đích, Nhiều Doanh nghiệp
đã dùng vốn vay hỗ trợ lãi suất vào các hoạt động khác không theo dự án được
duyệt như: đầu cơ, đầu tư tài chính, bất động sản, đảo nợ…
5. Kiến nghị, đề xuất những hướng cần đầu tư để sử dụng có hiệu quả
gói kích cầu của Chính phủ, và đón đầu cơ hội tăng trưởng kinh tế
Từ những vấn đề trên đây, cùng với việc nghiên cứu các chính sách kích
thích kinh tế của các nước trên thế giới, một số vấn đề cần lưu ý khi triển khai
“gói kích cầu” trong nước để có thể đạt mục tiêu: giải quyết được vấn đề trước
mắt là chống suy giảm, ngăn ngừa khả năng lạm phát - tác động trái chiều của
giải pháp chống suy giảm, và lâu dài là lấy lại đà tăng trưởng cao.
Một là, giải pháp ngăn chặn suy thoái kinh tế phải hướng vào việc tạo ra
những doanh nghiệp mới, cần áp dụng chính xác hỗ trợ lãi suất cho những
doanh nghiệp mới có phương án kinh doanh khả thi để thu hút số lao động đã
mất việc và tạo ra công ăn việc làm mới. Không nên quá chú trọng, chạy theo
các chỉ tiêu kinh tế đã đề ra trước khủng hoảng kinh tế toàn cầu, mà cần tranh
thủ cơ cấu lại nền kinh tế, cơ cấu lại sản xuất - phân phối - tiêu dùng, cơ cấu lại
13
xuất - nhập khẩu, cơ cấu lại đầu tư nhà nước - tư nhân, cơ cấu lại tiêu dùng - tiết
kiệm, cơ cấu lại các ngành, vùng trong nền kinh tế; tranh thủ đầu tư đổi mới
công nghệ; đào tạo lại nguồn nhân lực để chuẩn bị sẵn sàng cho giai đoạn phục
hồi của nền kinh tế, hay nói cách khác, thực hiện đẩy mạnh cải cách, tạo lập các
cơ sở thể chế, cơ cấu bền vững cho quá trình tăng trưởng lâu dài.
Hai là, tăng cường và ưu tiên kích cầu cho nông nghiệp và kinh tế - xã hội
nông thôn. Đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn cần phải ưu tiên cả đầu tư trực
tiếp và đầu tư gián tiếp thông qua hỗ trợ lãi suất tín dụng. Đây là khu vực chiếm
hơn 70% dân số và lao động xã hội, và đây cũng là khu vực ít chịu tác động của
cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, do đó nếu được đầu tư thoả đáng sẽ có bước
phát triển mới. Hơn nữa, khu vực này hiện nay đang là địa chỉ thu hút không ít
(khoảng 600 ngàn người) lao động từ các thành phố, khu công nghiệp bị mất
việc làm, trở về nông thôn làm việc. Vì vậy, tập trung kích cầu vào khu vực này
không những góp phần thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khoá X, mà còn góp
phần duy trì ổn định kinh tế - xã hội, và nhu cầu tiêu dùng của đông đảo nhân
dân lao động.
Ba là, ngoài kích cầu thông qua lãi suất, chính phủ cũng cần chú trọng các
nhóm giải pháp khác như xúc tiến thương mại, đẩy mạnh hoàn thiện các dự án
và công trình đầu tư xây dựng cơ bản. Hỗ trợ lao động mất việc làm thông qua
kinh phí dự phòng; trợ cấp cho người nghèo, người có thu nhập thấp, chi cho
nông nghiệp để đẩy mạnh sản xuất.
Bốn là, bên cạnh kích cầu tiêu dùng trong nước, cần tiếp tục mở rộng thị
trường xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ đến những thị trường tiềm năng, những
mặt hàng Việt Nam có thế mạnh như nông sản với giá cả hợp lý. Những mặt
hàng này gắn nhiều với nông dân, với các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động.
Do đó, “kích” vào đây góp phần giữ một động lực tăng trưởng mạnh của nền
kinh tế, giảm nguy có thâm hụt thương mại. Hơn nữa còn góp phần giúp đông
đảo người lao động duy trì được việc làm, thu nhập và đời sống, đồng thời giữ
vững ổn định chính trị.
Năm là với các dự án sử dụng ngân sách nhà nước, cần phải xác định cụ
thể, chính xác các lĩnh vực cần đầu tư theo các hướng ưu tiên đó là: (1) Phát
triển cơ sở hạ tầng như giao thông, bệnh viện, trường học, công nghệ thông tin
và truyền thông. Đây là nhóm lĩnh vực góp phần tăng trưởng kinh tế vững chắc
sau khủng hoảng kinh tế. (2) Đầu tư các dự án sử dụng nhiều lao động, tạo ra
nhiều việc làm mới, các dự án sản xuất phục vụ thị trường nội địa. Với những dự
14
án loại này, người lao động có việc làm ổn định, nhu cầu tiêu dùng được giữ
vững, từ đó kích thích tăng trưởng kinh tế ,
Sáu là, chính sách kích cầu cần quan tâm hơn nữa đến cầu tiêu dùng của
người dân và của những doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Kinh nghiệm
của các nước cho thấy, kích cầu tiêu dùng là nhóm giải pháp quan trọng để hạn
chế tác động của suy thoái kinh tế. Để kích tích tiêu dùng một cách thiết thực
đối với toàn xã hội, nên chăng: (1) Chính phủ cần điều chỉnh tăng lương, lùi thời
hạn thực hiện Luật Thuế thu nhập cá nhân, tạm thời miễn thuế VAT đối với một
số mặt hàng sản xuất trong nước. Giải pháp này phần nào làm giảm nguồn thu
ngân sách, nhưng bù lại sẽ kích thích được sản xuất và tăng sức mua của dân cư,
kích thích tiêu dùng nhanh và hiệu quả. (2) Với những mặt hàng thiết yếu, có
ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và đời sống của nhân dân mà nhà nước ta nắm
quyền chi phối, trong giai đoạn hiện nay phải kìm chế việc tăng giá. Vì sự tăng
giá các mặt hàng này, lập tức sẽ làm tăng mặt bằng đầu vào của nền kinh tế, dẫn
đến tăng giá thành, giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Hơn nữa, nó sẽ làm
giảm sức mua của người dân, giảm nỗ lực kích cầu của nhà nước và hậu quả
cuối cùng là nền kinh tế tiếp tục suy thoái. (3) Song song với giải pháp kích cầu
tiêu dùng nội địa, nhà nước cần phải kiểm soát chặt hàng hoá nhập khẩu, đặc
biệt là hàng hoá giá rẻ từ Trung Quốc và các nước trong khu vực. Nếu không thì
giải pháp kích cầu tiêu dùng sẽ kém hiệu quả, thậm chí có khi lại “kích cầu” tiêu
dùng hàng hoá nước ngoài như lịch sử những năm 1998-1999
Bảy là, cần có bước cải cách sâu rộng về cơ chế quản lý, thủ tục hành
chính bên cạnh những giải pháp về kinh tế. Vì biện pháp kích thích kinh tế được
đặt trong hệ thống chính sách phát triển bền vững của cả nền kinh tế, đầu tư gắn
với cải cách. Nếu không tính toán cẩn trọng, thì những căn bệnh hiện tại trong
bộ máy nhà nước như tham nhũng, thiếu minh bạch, xung đột lợi ích sẽ đưa “gói
kích thích kinh tế” này đến một kịch bản không thể lường trước được. Do đó, để
gói kích thích kinh tế của chính phủ phát huy tác dụng đúng kịch bản đòi hỏi cần
phải tăng cường cải cách cơ chế quản lý và thủ tục hành chính./.
15
Một số chính sách ngăn chặn suy giảm kinh tế của Việt Nam
- Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ về những giải
pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm
an sinh xã hội.
- Quyết định số 12/2009/QD-TTg ngày 19/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ về
việc ban hành kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày
11/12/2008 của Chính phủ.
- Quyết định 131/2009QD-TTg ngày 23/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ về hỗ
trợ lãi suất cho các tổ chức và cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất kinh
doanh.
- Quyết định số 16/2009/QD-TTg ngày 21/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ ban
hành một số giải pháp về thuế nhằm thực hiện chủ trương kích cầu đầu tư và
tiêu dùng, ngăn chặn suy giảm kinh tế, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.
- Quyết định 14/QD-TTg ngày 21/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ về quy chế
bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn ngân hàng thương mại.
- Quyết định 443/QD-TTg ngày 4/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ
trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn trung và dài hạn ngân hàng để thực
hiện đầu tư mới để phát triển sản xuất kinh doanh.
- Quyết định 497/QD-TTg ngày 17/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ
trợ lãi suất vay vốn mua máy móc thiết bị vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp
và vật liệu xây dựng nhà ở khu vực nông thôn.
- Quyết định 30/2009/QD-TTg ngày 23/2/2009 của Thủ tướng Chính phủ về
việc hỗ trợ đối với người lao động mất việc làm trong doanh nghiệp gặp khó
khăn do suy giảm kinh tế.
- Thông tư số 02/2009/TT-NHNN ngày 3/2/2009 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước quy định chi tiết thi hành việc hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay
vốn ngân hàng để sản xuất kinh doanh.
- Thông tư số 05/2009/TT-NHNN ngày 7/4/2009 của Ngân hàng Nhà nước quy
định chi tiết thi hành hỗ trợ lãi suất đối với các tổ chức, cá nhân vay vốn trung,
dài hạn ngân hàng, thực hiện đầu tư mới để phát triển sản xuất kinh doanh.
- Thông tư số 03/2009/TT-BTC ngày 13/1/2009 của Bộ Tài chính về giảm, gia
hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Thông tư 04/2009/TT-BTC ngày 13/1/2009 của Bộ Tài chính về việc hướng
dẫn thực hiện hoàn thuế VAT theo Nghị quyết 30/2008/NQ-CP.
- Thông tư 05/2009/TT-BTC ngày 13/1/2009 của Bộ Tài chính về thủ tục
hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu.
16

Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét