20 thg 3, 2016

Nâng cao năng lực cạnh tranh của Tập đoàn IBM tại Việt Nam với chiến lược Hành tinh thông minh hơn

7 giá ngang bằng hoặc thấp hơn mức giá phổ biến mà không có trợ cấp, bảo đảm cho ngành / doanh nghiệp đứng vững trước các đối thủ cạnh tranh hay sản phẩm thay thế. Theo Michael Porter thì cho rằng năng lực cạnh tranh là khả năng tạo những sản phẩm có quy trình công nghệ độc đáo tạo ra giá trị gia tăng cao phù hợp với nhu cầu khách hàng, chi phí thấp, năng suất cao nhằm nâng cao lợi nhuận. Tóm lại, năng lực cạnh tranh là khả năng khai thác, sử dụng và quản lý các nguồn lực có giới hạn như nhân – tài – vật lực một cách khoa học và hiệu quả, kết hợp với việc tận dụng các yếu tố thuận lợi khách quan từ môi trường để sản xuất ra những sản phẩm / dịch vụ có giá trị đặc sắc cao hơn đối thủ nhằm tạo ra các lợi thế cạnh tranh trước các đối thủ, từ đó đảm bảo cho doanh nghiệp đứng vững, tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh. Nói đến năng lực cạnh tranh, tùy theo yêu cầu nghiên cứu mà có thể đề cập đến năng lực cạnh tranh ở những cấp độ khác nhau như cấp độ quốc gia, cấp độ ngành và cấp độ hẹp hơn là năng lực cạnh tranh của từng loại sản phẩm. * Năng lực cạnh tranh quốc gia: là một khái niệm phức hợp, bao gồm các yếu tố ở tầm vĩ mô, đồng thời cũng bao gồm năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong cả nước. Năng lực cạnh tranh quốc gia là năng lực của một nền kinh tế đạt được tăng trưởng bền vững, thu hút được đầu tư, bảo đảm ổn định kinh tế xã hội, nâng cao đời sống của người dân. * Năng lực cạnh tranh ngành / doanh nghiệp: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thể hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ngày càng cao hơn. Như vậy, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trước hết phải được tạo ra từ thực lực của doanh nghiệp. Đây là các yếu tố nội hàm của mỗi doanh nghiệp, không chỉ được tính bằng các tiêu chí về công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp… một cách riêng biệt mà cần đánh giá, so sánh với các đối tác cạnh tranh trong hoạt động trên cùng một lĩnh vực, cùng một thị trường. Sẽ là vô nghĩa nếu những điểm mạnh và điểm yếu bên trong doanh nghiệp được đánh giá không thông qua việc so sánh một cách tương ứng với các đối tác cạnh tranh. Trên cơ sở các so sánh đó, muốn tạo nên năng lực cạnh tranh, đòi hỏi doanh nghiệp phải 8 tạo ra và có được các lợi thế cạnh tranh cho riêng mình. Nhờ lợi thế này, doanh nghiệp có thể thoả mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách hàng mục tiêu cũng như lôi kéo được khách hàng của đối tác cạnh tranh. (Lờ Công Hoa, 2006). 1.1.3. Lợi thế cạnh tranh Lợi thế cạnh tranh dựa trên cơ sở lý thuyết tuyệt đối về năng suất lao động, năng suất lao động cao nghĩa là chi phí sản xuất giảm, muốn tăng năng suất lao động thì phải phân công lao động và chuyên môn hóa sản xuất. Theo quan điểm của Michael Porter về lợi thế cạnh tranh thì Lợi thế cạnh tranh là giá trị mà doanh nghiệp mang đến cho khách hàng, giá trị đó vượt quá chi phí dùng để tạo ra nó. Giá trị mà khách hàng sẵn sàng để trả, và ngăn trở việc đề nghị những mức giá thấp hơn của đối thủ cho những lợi ích tương đương hay cung cấp những lợi ích độc nhất hơn là phát sinh một giá cao hơn. (Michael Porter, 1985). Với quan điểm này có thể hiểu lợi thế cạnh tranh là bất cứ giá trị nào doanh nghiệp mang đến cho người mua mà giỏ phớ nhằm tạo ra giá trị đó thấp hơn chi phí doanh nghiệp bỏ ra và được người tiêu dùng chấp thuận. Như vậy, doanh nghiệp có thể tạo ra nhiều giá trị trong quá trình tồn tại và hoạt động của nó nhưng chỉ những giá trị làm thỏa mãn những nhu cầu nhất định nào đó của người mua và giá trị đó phải cao hơn phí tổn tạo ra nó mới được coi là lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Michael Porter cho rằng lợi thế cạnh tranh có thể được biểu hiện ở 3 góc độ: - Phí tổn thấp có thể được hiểu là trong những điều kiện và khả năng kinh doanh tương đương, doanh nghiệp có thể tạo ra những sản phẩm tương đương về giá cả, chất lượng, mẫu mã … so với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh nhưng giỏ phớ để tạo ra sản phẩm đó phải thấp hơn so với đối thủ cạnh tranh. - Sự khác biệt của các sản phẩm so với sản phẩm cạnh tranh là một biểu hiện sinh động của lợi thế cạnh tranh. Khác biệt hóa là nhấn mạnh đến các ưu điểm đặc biệt riêng có của sản phẩm, dịch vụ trong quá trình đáp ứng các yêu cầu của khách hàng. Những đặc tính khác biệt của sản phẩm có thể được thể hiện dưới những hình thức như chất lượng sản phẩm, bao bì, mẫu mã, giá cả, thương hiệu, cung cách phục vụ của doanh nghiệp và dịch vụ kèm theo … - Tập trung nguồn lực của doanh nghiệp để phát triển một phân khúc thị trường nhất định nào đó. Từ cơ sở đó, doanh nghiệp từng bước thâm nhập thị 9 trường theo mô hình “vết dầu loang”. Đây là một biểu hiện khá lý thú về lợi thế cạnh tranh và nhiều doanh nghiệp đã đẩy khía cạnh này lên thành những chiến lược cấp công ty trong việc chinh phục thị trường. Sở dĩ đây là một khía cạnh có thể đem lại thành công cho doanh nghiệp vỡ cỏc doanh nghiệp có thể tìm ra “ngỏch” thị trường nào đó để tấn công và xâm nhập mà xác suất thành công là khá cao. ( Michael Porter, 1980) Nói cách khác, lợi thế cạnh tranh là cái làm cho doanh nghiệp khác biệt hơn so với đối thủ cạnh tranh (làm tốt hơn) hoặc làm những cỏi mỡnh cú mà đối thủ không có (là những cái mà doanh nghiệp dùng để xây dựng chiến lược cạnh tranh), nhờ đó doanh nghiệp đạt được mục tiêu nhất định của mình. Có thể nói lợi thế cạnh tranh và năng lực cạnh tranh là hai mặt, hai cách biểu hiện (cụ thể và tổng quát) về sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp muốn có khả năng cạnh tranh, muốn nâng cao năng lực cạnh tranh thì phải tạo cho được các lợi thế cạnh tranh và muốn có được các lợi thế cạnh tranh thì cũng phải có những khả năng, năng lực nhất định. Không thể có một doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh mà không có lợi thế cạnh tranh nào. Để tạo ra lợi thế cạnh tranh bền vững thì nguồn lực phải có giá trị, nó bao hàm những đặc điểm như hiếm có, có thể tạo ra giá trị khách hàng, có thể bắt chước và thay thế nhưng không hoàn toàn (Barney, 1991). Theo James Craig và Rober Grant, lợi thế cạnh tranh được tạo ra theo mô hình sau Hình 1: Mô hình các yếu tố quyết định của lợi thế cạnh tranh (Nguồn: James Craig và Rober Grant, “Strategy Management”, 1993, trang 63). Để xác định các yếu tố thành công then chốt, là nguồn gốc bên ngoài của lợi thế cạnh tranh, trước hết phải phân tích môi trường vĩ mô và cạnh tranh ngành. Tiếp theo, phân tích nguồn lực và kiểm toán nội bộ công ty sẽ xác định các nguồn 10 gốc bên trong của lợi thế cạnh tranh, đó là những nguồn lực có giá trị, các tiềm lực tiêu biểu, những năng lực cốt lõi và khác biệt của công ty, từ đó nhận dạng được các lợi thế cạnh tranh trong phối thức và nguồn lực. 1.1.4 Tính tất yếu của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường Thị trường là một cơ chế trong đó người mua và người bán tương tác với nhau để xác định giá cả và sản lượng của hàng hóa và dịch vụ (Paul A.Samuelson, 1997). Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một tất yếu bởi bản thân nền kinh tế cũng vận động theo quy luật cạnh tranh. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải bằng mọi nỗ lực đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng thông qua các biện pháp khác nhau như cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng, hạ giá thành, cung cấp những dịch vụ tốt nhất cho khách hàng. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là động lực rất lớn cho sự phát triển, nhưng trong cuộc chơi ấy, muốn dành thắng lợi doanh nghiệp phải nâng cao năng lực cạnh tranh. Cạnh tranh có thể đưa lại lợi ích cho người này và thiệt hại cho người khác, nhưng xột trờn phạm vi toàn xã hội thì cạnh tranh đem đến những tác động tích cực, nó làm cho sản phẩm tốt hơn, giá rẻ hơn, khách hàng được chăm sóc tốt hơn. Trong cuốn Kinh tế học, Samuelson đã đúc kết như sau: Adam Smith đã khám phá ra thuộc tính rõ nét của nền kinh tế thị trường cạnh tranh. Trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo và không có khuyết tật thị trường, thị trường sẽ có khả năng tạo ra nhiều hàng hóa và dịch vụ hữu dụng nhất bằng nguồn tiềm năng sẵn có. (Paul A.Samuelson, 1997, trang 77). Cụ thể hơn, cạnh tranh trên thị trường tạo ra các lợi ích sau: - Phân bổ nguồn lực của xã hội với tỷ lệ cân đối hợp lý, góp phần hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý. - Thúc đẩy tiến bộ khoa học công nghệ, tăng năng suất lao động. - Sử dụng với hiệu quả cao nhất các yếu tố đầu vào. - Thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của xã hội vì số lượng hàng hóa, dịch vụ ngày càng nhiều, chủng loại phong phú, chất lượng càng cao nhưng giá cả ngày càng hạ. Bên cạnh những tác động tích cực, cạnh tranh trên thị trường cũng tạo ra những tác động tiêu cực đối với nền kinh tế như sau: 11 - Cạnh tranh thị trường thiếu kiểm soát sẽ tạo ra cơ chế kinh tế hình thành tự phát, gây bất lợi cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. - Cạnh tranh thị trường vô chính phủ sẽ dẫn đến tình trạng hình thành một cuộc chơi không bình đẳng “cỏ lớn nuốt cỏ bộ”. - Cạnh tranh thị trường không lành mạnh sẽ dẫn đến phát sinh các tiêu cực trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy, chấp nhận cạnh tranh như là sự tất yếu của nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải tìm mọi cách khai thác lợi thế của riêng mình để từ đó phát triển năng lực cạnh tranh để tồn tại và phát triển. 1.2. Những yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 1.2.1. Các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô - Vị trí địa lý: Vị trí địa lý đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường của sản phẩm dựa vào các yếu tố chi phí vận chuyển, thuận lợi về giao thương. - Tăng trưởng kinh tế: Yếu tố tăng trưởng kinh tế tác động trực tiếp đến sức mua của xã hội và đây là yếu tố tạo điều kiện để doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất. - Tiết kiệm và đầu tư: Đầu tư là động lực chủ yếu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, sản phẩm và tăng trưởng kinh tế. Nhằm mục đích tạo ra sự ổn định lâu dài, đòi hỏi phải gia tăng các nguồn vốn tiết kiệm trong nước. - Thương mại: Nhiều công trình khoa học cho thấy việc mở cửa thương mại nhiều hơn đã dẫn đến tốc độ tăng trưởng dài hạn cao hơn, loại bỏ sự mất cân đối và nhờ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Những quốc gia mất cân đối thương mại cao có mức tăng năng suất thấp hơn so với các quốc gia mất cân đối thương mại ít hơn. 12 - Khoa học công nghệ: Khoa học công nghệ ngày một nổi lên là một trong những yếu tố có tính chất quan trọng nhất ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm, tác động đến triển vọng phát triển của doanh nghiệp. Tiến bộ kỹ thuật công nghệ tác động quan trọng đến chi phí sản xuất và chất lượng sản phẩm hàng hóa. - Luật pháp và chính sách: Những thành tựu và tồn tại của phát triển kinh tế chủ yếu phụ thuộc vào vai trò quản lý của nhà nước, thể hiện bằng những chính sách của cơ quan nhà nước. Có thể nói nếu thiếu vai trò lãnh đạo và sự hỗ trợ của nhà nước thì không thể bàn đến phát triển kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp. - Văn hóa xã hội: Văn hóa, giáo dục, lao động là những nhân tố quan trọng tác động đến khả năng nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Chất lượng nguồn nhân lực có một ý nghĩa quan trọng đối với cơ cấu sản xuất, khả năng cạnh tranh. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để tận dụng có hiệu quả lợi thế lao động rõ ràng là một khâu đột phá có ý nghĩa chiến lược của quá trình phát triển kinh tế. 1.2.2. Các yếu tố thuộc môi trường vi mô 1.2.2.1. Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp: Theo M. Porter, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc vào khả năng khai thác các năng lực của mình để tạo ra sản phẩm có chi phí thấp và sự khác biệt của sản phẩm, điểm cốt yếu của việc xây dựng chiến lược cạnh tranh là mối liên hệ giữa doanh nghiệp và môi trường kinh doanh. Hiện trạng của cuộc cạnh tranh trong ngành phụ thuộc vào 5 lực lượng cạnh tranh cơ bản theo mô hình sau:

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét