
14 thg 3, 2016
Dự báo kết quả đàm phán hiệp định thương mại xuyên thái bình dương (tpp) trong lĩnh vực thương mại dịch vụ. Cơ hội và thách thức với việt nam
11
11
thuận lợi giữa các bên trong mối quan hệ thương mại. Các dịch vụ viễn thông, công
nghệ thông tin giúp các bên có thể dễ dàng liên lạc, trao đổi thông tin, rút ngắn thời
gian ra quyết định, giúp cho việc mua bán hàng hóa hiệu quả và kinh tế hơn. Ngoài
ra còn rất nhiều dịch vụ khác ảnh hưởng mạnh mẽ đến thương mại hàng hóa, thúc
đẩy thị trường lưu thông hàng hóa phát triển một cách đầy đủ và toàn diện hơn.
1.1.3 Cách tiếp cận với tự do hóa thương mại dịch vụ trong các hiệp định thương
mại tự do
Tự do hóa thương mại là việc dỡ bảo những hàng rào do các nước lập nên
nhằm làm cho luồng hàng hóa di chuyển từ nước này sang nước khác được thuận
lợi trên cơ sở bình đẳng. Những hàng rào nói trên có thể là thuế quan, giấy phép
xuất nhập khẩu, quy định về tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa, yêu cầu kiểm dịch,
phương pháp đánh thuế,v.v... Rõ ràng lý thuyết và thực tiễn đã chứng minh, tự do
hóa thương mại sẽ thúc đẩy các quốc gia buôn bán, trao đổi hàng hóa, từ đó thúc
đẩy kinh tế phát triển.
Dịch vụ hiện là lĩnh vực tạo công ăn việc làm chủ yếu của các nền kinh tế
đang phát triển, đặc biệt tại các khu vực Mỹ La-tinh, Caribe và Đông Á. Dịch vụ
cũng là tương lai của các quốc gia đang phát triển bởi lẽ đây là ngành có tốc độ tăng
trưởng nhanh nhất trong cơ cấu kinh tế và cũng là lĩnh vực thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) mạnh mẽ nhất. Do có rất nhiều rào cản đối với thương mại dịch
vụ nên những lợi ích thu được từ việc dỡ bỏ những rào cản đó là rất lớn. Trong một
báo cáo gần đây của Ngân hàng Thế giới đã chỉ ra rằng các quốc gia có khu vực
dịch vụ tài chính mở cửa đạt được tốc độ tăng trưởng trung bình cao hơn so với các
quốc gia khác khoảng 1%. Theo một báo cáo của Đại học Michigan, khi các rào cản
thương mại được dỡ bỏ, ước tính tự do hóa thương mại dịch vụ có thể sẽ đem lại
khoảng hơn 2/3 phúc lợi kinh tế toàn cầu.
Chính vì những lí do đó, các quốc gia đang ngày càng tích cực trong việc kí
kết các Hiệp định thương mại tự do nhằm cắt giảm và xóa bỏ các hàng rào thuế
quan và phi thuế quan, tiến tới thành lập những khu vực mậu dịch tự do. Theo thống
kê của Tổ chức thương mại thế giới WTO, đến nay đã có hơn 200 FTA có hiệu lực
(WTO, 2011, tr.253).
12
12
Khi tiếp cận tự do hóa thương mại dịch vụ, các FTA thường đưa ra quy định
chung về các phương thức cung ứng dịch vụ để từ đó đưa ra các cam kết theo hai
phương pháp: phương pháp “chọn – bỏ” (negative list) và phương pháp “chọn –
cho” (positive list).
Các phương thức cung ứng dịch vụ chung thường được quy định trong các
FTA bao gồm:
Phương thức 1: Cung ứng qua biên giới (cross-border supply): là hình thức
mà một nhà cung ứng dịch vụ ở nước A bán dịch vụ cho khách hàng tại nước
B mà không di chuyển ra khỏi nước mình. Ví dụ: một kiến trúc sư tại New
Zealand bán một thiết kế cho một công ty xây dựng tại Việt Nam.
Phương thức 2: Tiêu thụ ở nước ngoài (consumption abroad): là hình thức
mà một người tiêu dùng dịch vụ của nước B sẽ đến nước A để mua và tiêu
dùng dịch vụ tại nước A). Ví dụ: một sinh viên Việt Nam đến Australia và
học tại Australia.
Phương thức 3: Hiện diện thương mại (commercial presence): là hình thức
mà một nhà cung ứng dịch vụ của nước A sẽ lập một văn phòng tại nước B
và cung ứng dịch vụ cho người tiêu dùng ở nước B. Ví dụ: một công ty luật
của Singapore lập một văn phòng đại diện tại Việt Nam và kinh doanh dịch
vụ luật pháp tại Việt Nam.
1.1.3.1 Phương pháp “chọn – cho” (positive list)
Phương pháp “chọn – cho” là cam kết theo dạng “chỉ được làm những gì
được phép làm”, tức là chỉ cam kết với những ngành được liệt kê trong biểu cam
kết. Ví dụ WTO sử dụng phương pháp “chọn – cho” khi xác định phạm vi cam kết,
tức là các dịch vụ được đưa vào Biểu cam kết dịch vụ. Theo đó, bên cam kết chỉ
cam kết mở cửa thị trường cho các dịch vụ xuất hiện trong Biểu. Với những dịch vụ
không xuất hiện trong Biểu, bên cam kết không có nghĩa vụ nào cả. Trong trường
hợp của Việt Nam, những dịch vụ như quản lý bất động sản, in ấn, xuất bản v..v
13
13
không xuất hiện trong Biểu cam kết dịch vụ. Điều đó có nghĩa là Việt Nam không
cam kết gì cho những ngành này, ngoại trừ nghĩa vụ áp dụng các quy tắc chung của
Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS). Ngoài Hiệp định GATS, Hiệp
định AANZFTA (lĩnh vực dịch vụ) cũng áp dụng cách tiếp cận này.
1.1.3.2 Phương pháp “chọn – bỏ” (negative list)
Phương pháp “chọn – bỏ” là cam kết theo dạng “được làm tất cả những gì
không bị hạn chế”, có nghĩa là tự do hóa tất cả các ngành trừ những ngành được liệt
kê trong Biểu cam kết. Phương pháp này được sử dụng khi đưa ra cam kết đối với
các dịch vụ được đưa vào Biểu. Theo đó, bên cam kết sẽ liệt kê toàn bộ các biện
pháp hạn chế áp dụng cho dịch vụ có liên quan. Ngoài các biện pháp này, sẽ không
áp dụng bất kỳ biện pháp hạn chế nào khác. Ví dụ: Nếu trong biểu cam kết chỉ liệt
kê dịch vụ bán buôn, không liệt kê phân ngành dịch vụ khác thuộc Dịch vụ phân
phối thì chỉ dịch vụ bán buôn được bảo lưu hạn chế, các phân ngành dịch vụ khác
cam kết tự do hóa hoàn toàn. Các hiệp định áp dụng cách tiếp cận này ví dụ: Hiệp
định đầu tư Việt – Nhật (BIT), Hiệp định đầu tư ASEAN (ACIA), Hiệp định đối tác
xuyên Thái Bình Dương (TPP) v.v...
1.2 Khái quát về Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)
1.2.1 Lịch sử hình thành và diễn biến đàm phán Hiệp định TPP
1.2.1.1 Lịch sử hình thành Hiệp định TPP
Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương, hay còn gọi là Hiệp định thương
mại xuyên Thái Bình Dương (TPP) hiện nay có nguồn gốc từ Hiệp định hợp tác
Kinh tế chiến lược Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Strategic Economic
Partnership Agreement – còn gọi là P4) - một Hiệp định thương mại tự do được
ký kết ngày 3/6/2005, có hiệu lực từ 28/5/2006 giữa 4 quốc gia là Singapore, Chile,
New Zealand và Brunei. Hiệp định này khởi nguồn là Hiệp định Đối tác kinh tế chặt
chẽ hơn do nguyên thủ 3 nước Chile, New Zealand và Singapore (P3) phát động
đàm phán nhân dịp Hội nghị Cấp cao APEC 2002 tổ chức tại Mexico. Tháng 4 năm
14
14
2005, Brunei xin gia nhập với tư cách thành viên sáng lập trước khi vòng đàm phán
cuối cùng kết thúc, biến P3 thành P4.
Năm 2007, các nước thành viên P4 quyết định mở rộng phạm vi đàm phán
của Hiệp định này ra các vấn đề dịch vụ tài chính và đầu tư và trao đổi với Hoa Kỳ
về khả năng nước này tham gia vào đàm phán mở rộng của P4. Phía Hoa Kỳ cũng
bắt đầu tiến hành nghiên cứu vấn đề, tham vấn nội bộ với các nhóm lợi ích và Nghị
viện về vấn đề này.
Tháng 9/2008, Đại diện thương mại Hoa Kì (USTR) thông báo quyết định
của Hoa Kỳ tham gia đàm phán P4 mở rộng và chính thức tham gia một số cuộc
thảo luận về mở cửa thị trường dịch vụ tài chính với các nước P4. Tháng 11 cùng
năm, các nước Australia, Peru và Việt Nam cũng bày tỏ sự quan tâm và tham gia
đàm phán TPP, nâng tổng số thành viên tham gia lên 8 nước (trừ Việt Nam đến
13/11/2010 mới tuyên bố tham gia đàm phán với tư cách thành viên đầy đủ, các
nước khác quyết định tham gia chính thức ngay từ đầu). Cũng từ thời điểm này,
đàm phán mở rộng P4 được đặt tên lại là đàm phán Hiệp định Đối tác Xuyên Thái
Bình Dương (TPP).
Tuy nhiên đàm phán TPP mới đã bị trì hoãn đến tận cuối năm 2009 do phải
chờ đợi Hoa Kỳ hoàn thành kỳ bầu cử Tổng thống và Chính quyền mới của Tổng
thống Obama tham vấn và xem xét lại việc tham gia đàm phán TPP. Tháng
12/2009, Đại diện thương mại Hoa Kỳ mới thông báo quyết định của Tổng thống
Obama về việc Hoa Kỳ tiếp tục tham gia TPP. Chỉ lúc này đàm phán TPP mới được
chính thức khởi động.
Về phía Việt Nam, từ năm 2006, qua nhiều kênh, Singapore đã rất tích cực
mời Việt Nam tham gia TPP - P4. Trước những cân nhắc cả về khía cạnh kinh tế và
chính trị, Việt Nam chưa nhận lời mời này của Singapore.
Tuy nhiên, với việc Mỹ quyết định tham gia TPP, và trước khi tuyên bố tham
gia TPP, Mỹ đã mời Việt Nam cùng tham gia Hiệp định này, Việt Nam đã cân nhắc
lại việc tham gia hay không tham gia TPP.
15
15
Đầu năm 2009, Việt Nam quyết định tham gia Hiệp định TPP với tư cách
thành viên liên kết. Tháng 11/2010, sau khi tham gia 3 phiên đàm phán TPP với tư
cách này, Việt Nam đã chính thức tham gia đàm phán TPP. Trước đó, tháng
10/2010, Malaysia cũng chính thức tham gia vào TPP, nâng tổng số nước tham gia
đàm phán lên thành 9 nước.
Như vậy, có 8 đối tác tham gia 3 Vòng đàm phán đầu tiên của TPP, bao gồm
4 nước thành viên P4 (là New Zealand, Brunei, Chile, Singapore) và 4 nước bên
ngoài (là Australia, Peru, Hoa Kỳ và Việt Nam). Malaysia là nước thứ 9 tham gia
đàm phán TPP từ Vòng đàm phán thứ 3.
Trong tương lai, số lượng các bên tham gia đàm phán còn có thể mở rộng
thêm bởi nhiều nước khác trong khu vực ASEAN và APEC đã tỏ thái độ quan tâm
đến TPP, đặc biệt là Nhật Bản, Canada, Hàn Quốc, Indonesia và Thái Lan.
1.2.1.2 Diễn biến đàm phán Hiệp định TPP
Hiệp định TPP là Hiệp định mang tính mở rất cao, được kì vọng sẽ trở thành
một khuôn khổ thương mại toàn diện và là Hiệp định thương mại tự do khuôn mẫu
của thế kỷ 21. Tuy không phải là chương trình hợp tác trong khuôn khổ APEC
nhưng các thành viên APEC đều có thể gia nhập nếu quan tâm. Các đối tác mong
muốn mở rộng TPP và sử dụng TPP như một công cụ để hiện thực hóa ý tưởng về
Khu vực Mậu dịch Tự do Châu Á-Thái Bình Dương của APEC (FTAAP).
Tính đến nay, các đối tác của Hiệp định TPP đã trải qua 11 vòng đàm phán
chính thức:
Vòng đàm phán thứ nhất: Vòng đàm phán chính thức thứ nhất của TPP được
tổ chức từ ngày 15-19 tháng 3/2010 tại Melbourne (Australia) với sự tham gia của
hơn 200 quan chức của Australia, Hoa Kỳ, New Zealand, Chile, Singapore, Brunei,
Peru và Việt Nam. Kết quả đạt được từ vòng đàm phán này đã đem lại cho TPP
một khởi đầu mạnh mẽ.
16
16
Các nhà đàm phán TPP trao đổi quan điểm về hàng loạt các vấn đề sẽ được
đưa vào các cuộc đàm phán và nêu ra các phương pháp tiếp cận mới đối với những
trở ngại mà các doanh nghiệp trong khu vực gặp phải và các lĩnh vực mới nổi của
thương mại quốc tế như dịch vụ, thương mại điện tử và công nghệ xanh. Các bên
cũng rất quan tâm đến việc phát triển một khung đàm phán tốt nhất cho một hiệp
định chất lượng cao của thế kỷ 21 cũng như mục tiêu mở rộng hiệp định cho các
quốc gia khác trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
Vòng đàm phán thứ hai: Vòng đàm phán thứ hai của TPP được tổ chức tại
San Francisco (Hoa Kỳ) từ ngày 14 - 18 tháng 6/2010 đã đạt được những tiến triển
đáng kể cả về cấu trúc của Hiệp định cũng như hàng loạt các vấn đề cụ thể trong
TPP.
Các nước TPP thống nhất rằng các Hiệp định thương mại song phương giữa
các nước TPP sẽ tiếp tục tồn tại song song với TPP, điều này sẽ giúp cho các doanh
nghiệp lựa chọn sử dụng hiệp định nào tốt hơn cho hàng hóa, dịch vụ hay đầu tư
của mình.
Vòng đàm phán lần này cũng đạt được tiến bộ vững chắc về phương pháp
tiếp cận đàm phán về kết quả của tiếp cận thị trường và làm thế nào để phản ánh
những kết quả đó trong hiệp định.
Các trưởng đoàn đàm phán cũng đạt được sự thống nhất về hàng loạt các vấn
đề chung quan trọng của thế kỷ 21 định hướng cho các cuộc đàm phán liên quan
đến thúc đẩy sự tham gia của doanh nghiệp vừa và nhỏ và thúc đẩy tính thống nhất
pháp lý, v.v... Ngoài ra, các nhà đàm phán TPP cũng đạt được các tiến triển về hàng
loạt các vấn đề truyền thống của FTA bao gồm hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, mua sắm
chính phủ, sở hữu trí tuệ, các rào cản kỹ thuật đối với thương mại, chính sách cạnh
tranh, các vấn đề pháp lý và xây dựng năng lực. Các cuộc thảo luận cũng tập trung
vào loại điều khoản nào quy định về thương mại và lao động, thương mại và môi
trường phù hợp với TPP.

Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét