
15 thg 3, 2016
Sự liên kết trong mô hình nhóm công ty (bài 8đ)
Công ty mẹ là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ
hoặc giữ quyền chi phối theo quyết định của Thủ tưởng Chính phủ.
Doanh nghiệp cấp II là các DN do DN cấp I giữ quyền chi phối; được tổ
chức dưới hình thức CTCP, CTTNHH một hoặc hai thành viên trở lên, tổng
công ty theo hình thức công ty mẹ – công ty con, công ty liên doanh (trong
trường hợp chưa đăng ký lại theo LDN), công ty con ở nước ngoài.
Các DN liên kết của tập đoàn gồm: DN có vốn góp dưới mức chi phối
của công ty mẹ và của công ty con; DN không có vốn góp của công ty mẹ và
của công ty con, tự nguyện tham gia liên kết dưới hình thức hợp đồng, liên kết
hoặc không có hợp đồng liên kết, nhưng có mối quan hệ gắn bó lâu dài về lợi
ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác với công ty
mẹ hoặc DN thành viên trong tập đoàn.
Công ty mẹ và các doanh nghiệp thành viên tập đoàn có tư cách pháp
nhân; có vốn và tài sản riêng; có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản
của mình theo quy định của pháp luật và theo thỏa thuận chung của tập đoàn.
Nhà nước là chủ sở hữu vốn nhà nước trực tiếp đầu tư vào công ty mẹ. Công ty
mẹ là chủ sở hữu vốn nhà nước tại các công ty con, DN liên kết.
Tập đoàn kinh tế tư nhân
Tập đoàn kinh tế tư nhân phải thỏa mãn các điều kiện về quy mô và cách
thức liên kết cụ thể:
- Bao gồm nhóm các công ty có tư cách pháp nhân độc lập và có quy
mô lớn;
- Hình thành trên cơ sở tập hợp, liên kết thông qua đầu tư, góp vốn, sáp
nhập, mua lại, tổ chức lại hoặc các hình thức liên kết khác;
- Gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và
các dịch vụ kinh doanh khác;
- Được tạo thành tổ hợp kinh doanh có từ hai cấp DN trở lên dưới hình
thức công ty mẹ – công ty con.
11
II.
Ưu và nhược điểm trong sự liên kết của nhóm công ty.
Một vài thực trạng về nhóm công ty ở Việt Nam
Ở các nước phát triển, người ta không còn xa lạ gì với các công ty hoạt
động theo mô hình nhóm công ty. Từ rất lâu, trong các nước TBCN, người ta
đã sử dụng mô hình này như kết quả tất yếu của quá trình tích tụ tập trung sản
xuất để đáp ứng yêu cầu khắc phục mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất xã hội
hóa cao với quan hệ sản xuất dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân TBCN về tư
liệu sản xuất; để nâng cao tỷ suất lợi nhuận trong điều kiện nguồn vốn về thực
chất vẫn là của sở hữu tư nhân. Sự xuất hiện nhóm công ty là sản phẩm của quy
luật tích lũy của CNTB. Các công ty tư nhân khi mới ra đời có quy mô nhỏ bé,
số lượng sản phẩm sản xuất ra không nhiều, chủng loại nghèo nàn, mối liên hệ
kinh tế đơn nhất. Nhưng quy luật thị trường, quy luật cạnh tranh với mục đích
lợi nhuận tối đa đòi hỏi các công ty phải không ngừng mở rộng quy mô, mở
rộng thị trường, đổi mới công nghệ… Để làm được điều đó, phải có nguồn vốn
lớn. Sự tích tụ tư bản và do đó cũng là quá trình tích tụ sản xuất là tất yếu.
Nhưng việc mở rộng quy mô chỉ dựa vào quá trình tích tụ thì quá chậm chạp.
Do đó việc tập trung nhiều công ty dưới các hình thức liên kết khác nhau sẽ cho
ra đời những công ty to lớn chỉ trong một thời gian ngắn là điều khó tránh khỏi
với nhiều hình thức mới như công ty cổ phần và công ty cổ phần ở bậc lũy thừa
hai và lũy thừa ba mà Mác và Ăng-ghen nêu ra từ lâu trong Bộ Tư bản nổi
tiếng.
Liên kết với nhau chủ yếu bằng cơ chế góp vốn, nhóm công ty đã thể
hiện nhiều ưu điểm vượt trội:
Thứ nhất, các công ty liên kết với nhau xuất phát từ lợi ích kinh tế,
không khiên cưỡng nên nó cho phép kết hợp các loại hình doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế khác nhau vào cùng một tổ chức kinh doanh một cách tự
nhiên. Do đó, nhóm công ty có thể ngày càng mở rộng quy mô sản xuất ở mức
rất cao bằng việc huy động nguồn lực của nhiều thành phần kinh tế. Từ một tổ
12
chức ban đầu, liên kết mở rộng ra với quy mô ngày càng lớn với sự hoạt động
đa ngành, đa phương, thậm chí đa quốc gia.
Thứ hai, mô hình nhóm công ty sẽ phát huy tính tự chủ, sáng tạo của
từng thành viên trong nhóm. Các công ty đều có tư cách pháp nhân, tự chủ hoạt
động kinh doanh theo định hướng của công ty mẹ,tự chịu trách nhiệm đối với
hoạt động của mình. Các công ty trong nhóm công ty, kể cả công ty mẹ và công
ty con đều không can thiệp trực tiếp vào công việc kinh doanh của nhau, nhưng
hỗ trợ nhau về công nghệ, thị trường, uy tín thương hiệu, dịch vụ kinh doanh…
do đó, tạo nên sức mạnh của tập đoàn.
Đó là các ưu điểm mà chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy từ sự liên kết
giữa các công ty của mô hình nhóm công ty. Tuy nhiên, khi Việt Nam tiếp nhận
mô hình này và thực hiện thí điểm đối với doanh nghiệp nhà nước thì nhiều bất
cập đã xảy ra. Cho đến nay, các doanh nghiệp nhà nước hầu hết đã chuyển đổi
sang mô hình công ty mẹ – công ty con và Tập đoàn kinh tế Nhà nước. Nhìn
chung, các Tổng công ty nhà nước sau khi thực hiện chuyển đổi sang mô hình
công ty mẹ – công ty con và Tập đoàn kinh tế đều đã gặt hái được những thành
tựu nhất định. Bên cạnh đó, nhóm công ty nhà nước sau khi được chuyển đổi
cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế, thậm chí là kinh doanh thua lỗ và làm thâm hụt
ngân sách nhà nước nghiêm trọng (đơn cử là Tập đoàn Vinashin, sau tái cơ cấu
trở thành Tổng công ty công nghiệp tàu thủy SBIC được tổ chức theo mô hình
công ty mẹ – công ty con)
Do mô hình nhóm công ty chính thức ở Việt Nam phần lớn vẫn là các
doanh nghiệp nhà nước (đa phần được chuyển đổi từ Tổng công ty nhà nước)
nên vẫn bị ảnh hưởng những “thói quen cũ”:
- Giữa công ty mẹ và công ty con vẫn còn tồn tại sự chỉ huy hành
chính, mệnh lệnh.
- Công ty mẹ hầu hết vẫn là các công ty 100% vốn nhà nước nên nguồn
lực tài chính còn yếu, chưa thể hiện được vai trò thực sự của công ty
mẹ.
13
- Tuy rằng công ty mẹ và công ty con là hai pháp nhân độc lập, tựchịu
trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của công ty mình, tuy nhiên,
công ty mẹ vẫn có “thói quen bảo vệ” công ty con, ví dụ khi công ty
con làm ăn lỗ thì công ty mẹ vẫn “chi” cho công ty con.
- Là công ty của nhà nước, được nhà nước “chống lưng” nên kết quả
sản xuất, kinh doanh của một số nhóm công ty chưa tương xứng với
đầu tư của Nhà nước, hiệu quả hoạt động chưa cao, năng suất lao
động còn thấp, sức cạnh tranh chưa đáp ứng yêu cầu của hội nhập
kinh tế quốc tế.
- Khác với các nhóm công ty trên thế giới, hầu hết đều đi từ các các
công ty nhỏ, hoạt động rất hiệu quả, tích tụ vốn và phát triển quy mô
dần trở thành các tập đoàn khổng lồ, các mô hình nhóm công ty nhà
nướcViệt Nam được thành lập dựa trên các tổng công ty có quy mô
chưa lớn, yếu kém trong quản lý, phần lớn vị trí chủ chốt được bổ
nhiệm vì lý do chính trị chứ không dựa trên năng lực quản trị kinh
doanh.
III.
Một số ý kiến cá nhân
Yếu kém, lỏng lẻo, chưa tới nơi tới chốn là điều dễ nhận thấy sau khi tìm
hiểu qua về mô hình nhóm công ty ở nước ta. Các công ty nhà nước, tuy là các
mô hình thí điểm, làm mẫu, nhưng qua phân tích đã thấy phát sinh quá nhiều
vấn đề; các doanh nghiệp tư nhân thì phần lớn không nắm được cách tổ chức
nhóm công ty, thấy “tập đoàn”, “công ty mẹ, công ty con” hay thì muốn tổ
chức, nhưng nhìn vào cơ cấu của những “tập đoàn” đó thì “sai bét nhè”!
Như vậy, vấn đề đầu tiên cần đặt ra là pháp luật Việt Nam cần đưa ra
một khung pháp lý cụ thể cho mô hình “nhóm công ty” (các vấn đề như: những
nội dung chỉ đạo chuyển đổi mô hình, quy chế tài chính cho các doanh nghiệp
sau khi chuyển đổi, các chính sách khác…). Thiết nghĩ, chúng ta nên nhìn ra
thế giới, học tập ở các nhóm công ty lớn để hoàn thiện cho mình những quy
14
định pháp luật về “nhóm công ty” rồi mới thí điểm thành lập thì có lẽ các
doanh nghiệp sẽ không “ngơ ngác” như vậy!
Thứ hai, chúng ta cần nghiêm túc hơn đối với các vị trí chủ chốt trong
“nhóm công ty”: cần là những người thực sự có năng lực quản lý, điều hành,
giỏi trong kinh doanh chứ không phải là những cá nhân được bổ nhiệm vì
những lý do khác nữa!
Cuối cùng, nhà nước nên “mạnh tay” hơn đối với các doanh nghiệp do
mình thành lập, đầu tư vốn: chặt chẽ trong quản lý, tạo ra các yếu tố “kích
thích” để doanh nghiệp hoạt động đạt hiệu quả cao nhất.
15
KẾT LUẬN
Nhóm công ty hiện nay là mô hình phổ biến trên thế giới, nó
giúpkhépkín quy trìnhsảnxuất, kinh doanh củacác doanh nghiệp, tạo ra sự
cạnh tranh lớngiữacác tổ hợp nay với nhau và thúcđẩynền kinh tế quốc gia
pháttriểnmạnh mẽ. Việcnhìnnhậnthực tế này và có sự họchỏi, ápdụng ở Việt
Nam là điềurấtđúngđắn! Tuy nhiên, chúng ta cần quan sátkỹ hơn và ápdụng
linh hoạt hơn để không biến sự tiến bộ của “người ta” thành “thảmhọa”
củamình!
Trong một tổ hợp, cách để liên kếtcácthành viên lạichiếmphầnlớnthành
công của tổ hợp đó. Chúng ta cầnápdụngcáchìnhthức liên kết trong nhómcông
ty mộtcáchsángtạo hơn, linh hoạt hơn, đặcbiệtđốivớicác mô hìnhnhóm công
ty nhà nước. Một khi các doanh nghiệp nhà nướcthành công trong mô
hìnhnày, các doanh nghiệp tư nhân sẽ lấy đó làmhìnhmẫu. Từ đó, chúng ta có
cơ sở để tin rằngnền kinh tế Việt Nam sẽ nhảyvọt, xứngtầm thế giới!!!!!
16

Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét