LỜI MỞ ĐẦU
1.
Tính tất yếu của đề
tài
Sau hơn 20 năm thực hiện đổi mới nền kinh tế đất nước, số lượng doanh
nghiệp và đội ngũ doanh nhân nước ta đã có sự thay đổi và phát triển vượt bậc.
Trước thời kỳ đổi mới, nền kinh tế nước ta được quản lý theo cơ chế kế hoạch hóa
tập trung, thành phần các doanh nghiệp chủ yếu là doanh nghiệp quốc doanh, số
lượng cũng không nhiều, tổng số lúc cao nhất cũng chỉ trên 1200 doanh nghiệp.
Trong thời gian qua, Đảng và chính phủ đã có những nỗ lực đáng kể trong việc phát
triển một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khuyến khích nhiều
thành phần kinh tế cùng phát triển bình đẳng trong môi trường kinh doanh lành
mạnh. Do đó, số lượng doanh nghiệp đã tăng lên nhanh chóng. Sau khi luật Công ty
được ban hành năm 1990, đặc biệt là sau khi luật Doanh nghiệp có hiệu lực năm
2000, đến nay cả nước có khoảng 300 000 doanh nghiệp trong đó có gần 200 000
doanh nghiệp ngoài quốc
doanh, trên 3,7 triệu hộ kinh doanh cá thể.
Bên cạnh sự ra đời của ngày càng nhiều các doanh nghiệp thì xu hướng “liên
doanh, liên kết - hợp tác vững mạnh” cũng nảy sinh như một nhu cầu tất yếu trong
xã hội hiện đại. Sự cạnh tranh và quy luật đào thải khắc nghiệt của nền kinh tế thị
trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải có sự đoàn kết, chung lưng góp sức trước hết
là vì sự tồn tại,
vì lợi ích và tương lai của chính mình. Hơn lúc nào hết,
sự ra đời của
một tổ chức tập hợp, liên kết, hỗ trợ và đại diện giờ đây đã trở thành một nhu cầu
cấp thiết đối với các doanh nghiệp. Tổ chức này sẽ thay họ làm nhiệm vụ của người
phát ngôn, đại diện cho quyền lợi và mong muốn chung của các doanh nghiệp, là
cầu nối liên kết các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Vì thế, sự ra đời của Hội,
Hiệp hội doanh nghiệp là cần thiết. Hội là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với các nhà
doanh nghiệp, đồng thời là môi trường tập hợp, bồi dưỡng, định hướng phát triển
cho các nhà doanh nghiệp. Bước sang thế kỷ 21, các nhà doanh nghiệp tiếp tục là
lực lượng quan trọng trong quản lý, điều hành các đơn vị kinh tế nước nhà. Việc tập
hợp, bồi dưỡng nghiệp vụ, giáo dục, định hướng tư tưởng cho đội ngũ các nhà
doanh nghiệp là nhiệm vụ của tổ chức Hội, Hiệp hội và cũng là vấn đề cấp bách,
quan trọng để đảm bảo năng lực cạnh tranh, sự phát triển ổn định và đúng định
hướng XHCN của
nền kinh tế Việt Nam trong điều
kiện hội nhập kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, ở Việt Nam , hiệu quả hoạt động của các Hiệp hội doanh nghiệp
chưa thực sự cao. Theo đánh giá của Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan thì: “Nhìn
chung, các Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam đều nỗ lực rất lớn phấn đấu thực hiện
vai trò chủ chốt của mình, đại diện bảo vệ cho quyền lợi hội viên, kể cả các quan hệ
trong nước cũng như các quan hệ kinh doanh quốc tế. Nhưng thực tế hiện nay cho
thấy, năng lực các Hiệp hội còn khác nhau, điều kiện của các hiệp hội cũng khác
nhà và vai trò, đóng góp của các hiệp hội cũng chênh lêch nhau đáng kể”. Mặt khác,
sau khi Việt Nam là thành viên của WTO, Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội mới, cũng
như thách thức mới trong việc phát triển kinh tế nói chung. Điều này đòi hỏi, mối
liên hệ giữa doanh nghiệp và Hiệp hội càng cao. Trước thực tiễn đó, việc triển khai
nghiên cứu đề tài “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các
Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” là cần
thiết và cấp bách.
2.
Mục đích nghiên cứu của
đề tài
Nghiên cứu, đánh giá thực trạng tình hình giới doanh nghiệp Việt Nam hiện
nay, mô hình tổ chức hoạt động của một số hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài và hoạt
động của các Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam , từ đó đề ra các giải pháp, biện pháp,
định hướng nâng cao hiệu quả hoạt động của các Hiệp hội Doanh nghiệp Việt Nam
phù hợp với điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và yêu cầu hiện nay của đất nước.
3.
Nhiệm vụ nghiên
cứu của đề tài
- Khái quát các vấn đề lý luận liên quan đến doanh nghiệp và hoạt động của
Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam và kinh nghiệm hoạt động của một số hiệp hội
trên thế giới.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của Hội, Hiệp hội doanh nghiệp
Việt Nam cụ thể từ đó đưa ra nhận xét chung về hoạt động của Hội, Hiệp hội doanh
nghiệp nói chung.
- Đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các Hiệp hội doanh
nghiệp Việt Nam trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
4.
Đối tượng, khách
thể và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động của các doanh nghiệp trong Hiệp hội và
tác động của Hiệp
hội đối với các doanh nghiệp tham gia.
- Khách thể nghiên cứu: Các doanh nghiệp, Hội doanh nghiệp Việt Nam , Hội
doanh nghiệp
của môt số nước trên thế giới.
- Phạm vi nghiên cứu: Toàn quốc, tập trung vào một số Hiệp hội có hoạt động
tốt và hiệu quả.
5.
Phương pháp
nghiên cứu
Sử dụng
tổng hợp các phương pháp sau:
-
Phương
pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử.
-
Phương pháp hệ
thống.
-
Phương pháp phân
tích, tổng hợp các tư liệu, tài liệu liên quan.
-
Phương
pháp chuyên gia: Tọa đàm, trao đổi.
6.
Kết cấu cấu đề tài
Ngoài các phần: mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của đề tài
chia làm 3 chương:
-
Chương 1: Những cơ sở lý luận và nội dung chủ yếu về doanh nghiệp và
hoạt động của doanh
nghiệp trong Hiệp hội.
-
Chương 2: Thực trạng quá trình hoạt động của các Hiệp hội doanh nghiệp
trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế.
-
Chương 3: Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Hiệp hội
doanh nghiệp trong
bối cảnh hội nhập.
Tuy nhiên, do đối tượng nghiên cứu của đề tài là rất mới mẻ, thời gian
nghiên cứu có hạn nên trong một số khía cạnh trình bày của sẽ không tránh khỏi
thiếu sót. Em rất mong những ý kiến đánh giá, phê bình quý báu của thầy cô và các
bạn để bài viết được
hoàn thiện và có ý nghĩa thực tiễn hơn.
http://download.doko.vn/thesis/3/4/8/2/9/1/57d3bb17ce9891c022d5a40a0667bfae/doko.vn-348291-Thuc-trang-va-giai-phap-nang-c.doc
Trả lờiXóa