12 thg 10, 2013

Cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam thời kỳ mở cửa – Thực trạng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu.

http://www.doko.vn/luan-van/348336

Đề tài: Cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam thời kỳ mở cửa – Thực trạng và 
giải pháp chuyển dịch cơ cấu. 

PHẦN  I:  THỰC  TRẠNG  CƠ  CẤU  HÀNG  XUẤT  KHẨU  THỊ 
TRƯỜNG VIỆT NAM THỜI KỲ MỞ CỬA 

Trước  năm  1986,  thị  trường  xuất  khẩu  của  Việt  Nam  chủ  yếu  tập 
trung tại các nước khối xã hội chủ nghĩa thuộc Đông Ân và Liên Xô (cũ) với 
tổng thị phần chiếm tới 80%. Mặt hàng xuất khẩu nghèo nàn chủ yếu là các 
sản phẩm giày dép, dệt may gia công và hàng nông sản, công nghiệp được 
xuất dưới dạng thô. Sự thay đổi của nền kinh tế thế giới, đặc biệt là sự sụp 
đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu đã tác động trực tiếp đến hoạt động 
xuất khẩu của Việt Nam đồng thời tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam 
nói chung, các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam nói riêng bước sang giai 
đoạn  phát  triển  mới  thay  đổi  cả  về  chất  và  lượng.  Kinh  tế  Việt  Nam  giai 
đoạn từ khi đổi mới đến nay đã có nhiều bước phát triển vượt bậc, đặc biệt 
các mặt hàng và thị trường xuất khẩu ngày càng rộng hơn, đa dạng hơn,  góp 
phần nâng cao tỷ lệ đóng góp vào ngân sách nhà nước. 

Trong quá trình đổi mới với nhận thức sâu sắc về sự phát triển của nền 
kinh tế còn nhiều khó khăn, Việt Nam đã từng bước tham gia vào quá trình 
quốc tế hóa thông qua việc gia nhập các tổ chức lớn của khu vực và thế giới. 
Đặc biệt, việc trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO 
góp  phần  thúc  đẩy  kinh  tế  Việt  Nam  bước  sang  một  giai  đoạn  mới,  tránh 
nguy cơ tụt hậu, tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam cơ hội cạnh tranh lành 
mạnh trên thị trường quốc tế. Điều đó góp phần thay đổi cơ cấu hàng xuất 
khẩu Việt Nam. Tận dụng thế mạnh của mình, tập trung vào thị trường xuất
khẩu mà Việt Nam có nhiều ưu thế là thị trường ASEAN thay thế thị trường 
châu Âu trước đây. Có thể thấy rõ lợi ích của Việt Nam khi tham gia hiệp

hội  các  quốc  gia  Đông  Nam  Á  ASEAN  sau  hơn  12  năm.  Thời  gian  chưa 
nhiều,  nhưng  ASEAN  với  diện  tích  4,5  triệu  km2,  khoảng  550  triệu  dân, 
GDP  đạt  700  tỉ  USD,  tổng  kim  ngạch  xuất  khẩu  đạt  xấp  xỉ  550  tỉ  USD 
(chiếm  78,5%  GDP,  bình  quân  đầu  người  đạt  xấp  xỉ  1.000  USD),  đã  trở 
thành đối tác lớn về đầu tư, thương mại của Việt Nam. Kể từ khi Việt Nam 
thực  hiện  AFTA  (năm  1996),  kim  ngạch  xuất  khẩu  của  Việt  Nam  sang 
ASEAN có xu hướng tăng liên tục (riêng năm 2001 và 2002 giảm nhẹ). Từ 
năm  2002  -  2006,  kim  ngạch  xuất  khẩu  của  Việt  Nam  sang  các  nước 
ASEAN  đã tăng  2,6 lần,  tốc  độ  tăng trưởng  trung bình đạt 21,1%/năm. Cụ 
thể:  Campuchia:  39,8%/năm;  Inđônêxia:  36,1%/năm;  Lào:  9,5%/năm; 
Malaixia:  30,8%/năm;  Mianma:  28,8%/năm;  Phiippin:  20,7%/năm; 
Xingapo:  9,6%/năm;  Thái  lan:  28,9%/năm.  Về  cơ  cấu  xuất  khẩu  của  Việt 
Nam sang ASEAN, có hai mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch và tỷ trọng lớn 
nhất là dầu thô (thường chiếm tỷ trọng xung quanh mức 40% năm 2005 lên 
trên 46,6%), sau đó là gạo (chiếm tỷ trọng trên 10%). Các nước nhập khẩu 
gạo lớn trong ASEAN như Inđônêxia, Philipin, Malaixia đều coi gạo là mặt 
hàng đặc biệt quan trọng và thực hiện nhiều biện pháp phi thuế quan để quản 
lý  mặt  hàng này. Năm  2007, kim  ngạch xuất khẩu gạo  của  Việt  Nam  sang 
ASEAN đạt trên 1 tỷ USD và dự kiến năm 2008 sẽ vẫn duy trì mức này. Do 
lợi  thế  về  vận  tải và nhu cầu  gạo  phẩm  cấp thấp  phù hợp với sản  xuất  của 
Việt  Nam  nên  thị  trường  ASEAN  vẫn  là  thị  trường  quan  trọng  trong  xuất 
khẩu gạo Việt Nam


1 nhận xét:

  1. http://download.doko.vn/thesis/3/4/8/3/3/6/c3f5689714fcc344e0a8616caf2fd9e5/doko.vn-348336-Co-cau-hang-xuat-khau-Viet-Nam.doc

    Trả lờiXóa