Đề tài: Cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam thời kỳ mở cửa – Thực trạng và
giải pháp chuyển dịch cơ cấu.
PHẦN I: THỰC TRẠNG CƠ CẤU HÀNG XUẤT KHẨU THỊ
TRƯỜNG VIỆT NAM THỜI KỲ MỞ CỬA
Trước năm 1986, thị trường xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu tập
trung tại các nước khối xã hội chủ nghĩa thuộc Đông Ân và Liên Xô (cũ) với
tổng thị phần chiếm tới 80%. Mặt hàng xuất khẩu nghèo nàn chủ yếu là các
sản phẩm giày dép, dệt may gia công và hàng nông sản, công nghiệp được
xuất dưới dạng thô. Sự thay đổi của nền kinh tế thế giới, đặc biệt là sự sụp
đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu đã tác động trực tiếp đến hoạt động
xuất khẩu của Việt Nam đồng thời tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam
nói chung, các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam nói riêng bước sang giai
đoạn phát triển mới thay đổi cả về chất và lượng. Kinh tế Việt Nam giai
đoạn từ khi đổi mới đến nay đã có nhiều bước phát triển vượt bậc, đặc biệt
các mặt hàng và thị trường xuất khẩu ngày càng rộng hơn, đa dạng hơn, góp
phần nâng cao tỷ lệ đóng góp vào ngân sách nhà nước.
Trong quá trình đổi mới với nhận thức sâu sắc về sự phát triển của nền
kinh tế còn nhiều khó khăn, Việt Nam đã từng bước tham gia vào quá trình
quốc tế hóa thông qua việc gia nhập các tổ chức lớn của khu vực và thế giới.
Đặc biệt, việc trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO
góp phần thúc đẩy kinh tế Việt Nam bước sang một giai đoạn mới, tránh
nguy cơ tụt hậu, tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam cơ hội cạnh tranh lành
mạnh trên thị trường quốc tế. Điều đó góp phần thay đổi cơ cấu hàng xuất
khẩu Việt Nam. Tận dụng thế mạnh của mình, tập trung vào thị trường xuất
khẩu mà Việt Nam có nhiều ưu thế là thị trường ASEAN thay thế thị trường
châu Âu trước đây. Có thể thấy rõ lợi ích của Việt Nam khi tham gia hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN sau hơn 12 năm. Thời gian chưa
nhiều, nhưng ASEAN với diện tích 4,5 triệu km2, khoảng 550 triệu dân,
GDP đạt 700 tỉ USD, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt xấp xỉ 550 tỉ USD
(chiếm 78,5% GDP, bình quân đầu người đạt xấp xỉ 1.000 USD), đã trở
thành đối tác lớn về đầu tư, thương mại của Việt Nam. Kể từ khi Việt Nam
thực hiện AFTA (năm 1996), kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang
ASEAN có xu hướng tăng liên tục (riêng năm 2001 và 2002 giảm nhẹ). Từ
năm 2002 - 2006, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước
ASEAN đã tăng 2,6 lần, tốc độ tăng trưởng trung bình đạt 21,1%/năm. Cụ
thể: Campuchia: 39,8%/năm; Inđônêxia: 36,1%/năm; Lào: 9,5%/năm;
Malaixia: 30,8%/năm; Mianma: 28,8%/năm; Phiippin: 20,7%/năm;
Xingapo: 9,6%/năm; Thái lan: 28,9%/năm. Về cơ cấu xuất khẩu của Việt
Nam sang ASEAN, có hai mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch và tỷ trọng lớn
nhất là dầu thô (thường chiếm tỷ trọng xung quanh mức 40% năm 2005 lên
trên 46,6%), sau đó là gạo (chiếm tỷ trọng trên 10%). Các nước nhập khẩu
gạo lớn trong ASEAN như Inđônêxia, Philipin, Malaixia đều coi gạo là mặt
hàng đặc biệt quan trọng và thực hiện nhiều biện pháp phi thuế quan để quản
lý mặt hàng này. Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam sang
ASEAN đạt trên 1 tỷ USD và dự kiến năm 2008 sẽ vẫn duy trì mức này. Do
lợi thế về vận tải và nhu cầu gạo phẩm cấp thấp phù hợp với sản xuất của
Việt Nam nên thị trường ASEAN vẫn là thị trường quan trọng trong xuất
khẩu gạo Việt Nam.
…
http://download.doko.vn/thesis/3/4/8/3/4/3/752dfa77ac97589254c35094807ac18d/doko.vn-348343-Co-cau-hang-xuat-khau-Viet-Nam.doc
Trả lờiXóa