
30 thg 3, 2016
Sự vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và những nguyên tắc cơ bản để giải quyết vấn đề dân tộc ở nước ta hiện nay
quốc và chủ nghĩa thực dân dưới mọi hình thức, đấu tranh chống kỳ thị dân tộc,
phân biệt chủng tộc. Trong thời đại ngày nay, các dân tộc còn bị cuốn hút vào
xu hướng liên minh, liên kết quốc tế và khu vực vì các lợi ích kinh tế, chính trị,
văn hóa, khoa học kỹ thuật… mở cửa, hòa nhập cũng là một xu thế chủ yếu
trong mối quan hệ giữa các dân tộc trong giai đoạn hiện nay.
Độc lập, tự chủ đi đôi với mở rộng quan hệ hợp tác với các nước khác. Đảng
Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Giữ vững độc rộng hợp tác quốc tế, đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại” là nguyên tắc thống nhất đối ngoại
của Đảng và Nhà nước ta (Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII)
1.2. Những nguyên tắc cơ bản trong việc giải quyết vấn đề dân tộc.
Vấn đề dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô sản do đó giải quyết vấn
đề dân tộc phải gắn với cách mạng vô sản, đứng vững trên lập trường của giai
cấp công nhân, trên cơ sở vì lợi ích cơ bản và lâu dài của dân tộc. Kế thừa tư
tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về dân tộc, từ thực tiễn đấu tranh của phong
trào cách mạng thế giới và cách mạng Nga; phân tích sâu sắc hai xu hướng
khách quan của phong trào dân tộc gắn liền với quá trình phát triển của chủ
nghĩa tư bản, nhất là khi đã bước vào giai đoạn đế quốc chủ nghĩa V.I.Lênin đã
khái quát lại thành “Cương lĩnh dân tộc” của Đảng Cộng sản.
Nội dung của Cương lĩnh gồm những nguyên tắc sau:
Thứ nhất, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng.
Đây là quyền thiêng liêng của mọi dân tộc, không phân biệt dân tộc lớn hay
nhỏ, ở trình độ phát triển cao hay thấp. Các dân tộc đều có nghĩa vụ và quyền
lợi ngang nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, là mục tiêu phấn đấu
của các dân tộc trong sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc.
Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải
được pháp luật bảo vệ, được thể hiện sinh động trong mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, trong đó việc phấn đấu khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển
kinh tế, văn hóa do lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản.
Trên phạm vi giữa các quốc gia dân tộc, đấu tranh cho sự bình đẳng giữa các
dân tộc trong giai đoạn hiện nay gắn liền với cuộc đấu tranh phân biệt chủng
tộc, chủ nghĩa dân tộc sô-vanh, chủ nghĩa phát-xít (mới), gắn liền với đấu tranh
xây dựng một trật tự thế giới mới, chống sự áp bức, bóc lột của các nước tư bản
phát triển đối với các nước chậm phát triển về kinh tế.
Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc
tự quyết và xây dựng một mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các dân tộc.
Thứ hai, các dân tộc được quyền tự quyết.
Quyền tự quyết của các dân tộc, trước hết là quyền tự quyết về chính trị –
thành lập một quốc gia dân tộc độc lập. Đây cũng là quyền cơ bản, thiêng liêng
của các dân tộc.
Thực chất của quyền dân tộc tự quyết là thực hiện quyền làm chủ của một
dân tộc, tự mình quyết định vận mệnh của dân tộc mình, là giải phóng cho các
11
nước thuộc địa và phụ thuộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, giành
độc lập dân tộc và đưa đất nước tiến theo con đường tiến bộ xã hội.
Quyền tự quyết của các dân tộc còn bao hàm cả quyền các dân tộc tự
nguyện liên hợp lại thành một liên bang các dân tộc, trên cơ sở bình đẳng giúp
nhau cùng tiến bộ.
Tuy nhiên, khi xem xét giải quyết quyền tự quyết của dân tộc cần đứng vững
trên lập trường giai cấp công nhân: Triệt để ủng hộ các phong trào dân tộc tiến
bộ phù hợp với lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực đế quốc
và phản động lợi dụng chiêu bài “dân tộc tự quyết” để can thiệp vào công việc
nội bộ của các nước, giúp đỡ các thế lực phản động, dân tộc chủ nghĩa đàn áp
các lực lượng tiến bộ, đòi li khai và đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa thực dân mới,
của chủ nghĩa tư bản.
Thứ ba, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc.
Đây là tư tưởng cơ bản trong Cương lĩnh dân tộc của V.I. Lênin, nó phản
ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự
nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Những người Cộng sản lấy
đoàn kết công nhân tất cả các dân tộc làm mục tiêu phấn đấu cho sự nghiệp giải
phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng nhân loại.
Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin là một bộ phận trong cương
lĩnh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp; là cơ sở lý luận của đường lối,
chính sách dân tộc của các Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
2. Sự vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc giải quyết
vấn đề dân tộc ở nước ta hiên nay.
2.1. Một số đặc điểm của dân tộc nước ta hiện nay.
Việt Nam là một quốc gia có nhiều dân tộc, các tộc người cùng chung sống với
nhau, mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hóa riêng của mình. Nước ta có 54 dân tộc
anh em, căn cứ vào số liệu thống kê năm 1989 thì dân tộc Kinh là dân tộc chiếm
khoảng 87% , 53 dân tộc còn lại chỉ chiếm 13% dân số phân bố rải rác trên địa
bàn phạm vi cả nước
Các dân tộc trên đất nước ta có truyền thống đoàn kết đấu tranh trong dựng
nước, giữ nước và xay dựng một cộng đồng dân tộc thống nhât.
Các dân tộc trên đất nước ta có đặc điểm cư trú xen kẽ nhau và có xu hướng
ngày càng tăng.
Các dân tộc ở nước ta có trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đều nhau
Nền văn hóa ở nước ta là nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, mỗi dân tộc
anh em đều có những giá trị và sắc thái riêng biệt của mình.
Trải qua lịch sử liên tục chống ngoại xâm, dân tộc ta đã hình thành rất sớm và
trở thành một quốc gia dân tộc độc lập thống nhất ngay dưới chế độ thời phong
kiến.
12
Các dân tộc thiểu số anh em tuy chỉ chiếm một phần nhỏ trong dân số của cả
nước (13%) nhưng lại cư trú trên các địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về
chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế và giao lưu quốc tế…
2.2. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Dựa trên quan điểm của Mác - Lênin về vấn đề dân tộc và thực tiễn lịch sử đấu
tranh cách mạng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam cũng như dựa vào
tình hình thế giới trong giai đoạn hiện nay Đảng và nhà nước ta ngay từ khi
thành lập cho đến nay luôn luôn coi vấn đề dân tộc và xây dựng khối đại đoàn
kết dân tộc có tầm quan trọng đặc biệt.
Trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đảng đã nêu rõ: “vấn đề
dân tộc và đại đoàn kết dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách
mạng”. thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp
đỡ lẫn nhau cùng nhau phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, phát
triển sản xuất hàng hóa, chăm lo đời sống vật chất tinh thần đi đôi với “giữ gìn
và phát huy bản sắc dân tộc. Thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ cách mạng ”, kiên
quyết “chống kỳ thị chia rẽ dân tộc, chống tư tưởng lớn, tư tưởng dân tộc hẹp,
dân tộc cực đoan khắc phục tư tưởng tự ti mặc cảm dân tộc.
Biểu hiện cụ thể như sau :
Có chính sách phát triển kinh tế hàng hóa ở các vùng dân tộc thiểu số phù
hợp với điều kiện và đặc điểm từng vùng từng dân tộc khai thác thuộc được
thế mạnh của địa phương mình và đóng góp vào sự nghiệp xây dựng Tổ quốc.
Tôn trọng lợi ích, truyền thống văn hóa, ngôn ngữ, tập quán tín ngưỡng của
đồng bào các dân tộc, từng bước nâng cao dân trí nhất là các dân tộc thiểu số ở
vùng cao, hải đảo.
Tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết và đấu tranh kiên cường của các
dân tộc vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh, chống tư tưởng dân tộc cực đoan, dân
tộc hẹp, nghiêm cấm mọi hành vi miệt thị và chia rẽ dân tộc.
Tăng cường bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, đồng thời
giáo dục tinh thần kết hợp tác cho cán bộ các dân tộc. bởi vì chỉ tinh thần đó
mới phù hợp với đòi hỏi khách quan của công cuộc phát triển dân tộc và xây
dựng đất nước, trong công cuộc đó , không dân tộc nào có thể chỉ sử dụng đội
ngũ cán bộ xuất thân từ dân tộc, cần sự hỗ trợ lẫn nhau trong cả nước.
Ngày 21/4/2001, tại Hà Nội, Trung tâm báo chí Đại hội Đảng IX đã tổ chức
Họp báo chuyên đề về Đại đoàn kết dân tộc, tôn giáo và dân tộc.
Tại cuộc họp báo này, ông Trần Văn Đăng, Tổng thư ký ủy Ban Trung ương
Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam nói rằng, Đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận dân tộc
thống nhất Việt Nam là một bộ phận quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh, là
đường lối cơ bản lâu dài trước sau như một của Đảng Cộng sản Việt Nam và
Nhà Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân, Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam có chủ trương thực hiện
đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, thành phần, mọi giới, mọi
lứa tuổi, người trong Đảng và người ngoài Đảng, người đang công tác và người
13
đã nghỉ hưu, mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống ở
trong nước hay định cư ở nước ngoài; phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân
tộc, truyền thống yêu nước và lòng tự hào dân tộc; tăng cường mở rộng khối đại
đoàn kết toàn dân trên cơ sở củng cố và phát triển sâu rộng khối đại đoàn kết
toàn dân trong Mặt trận Tổ quốc và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân gắn
với việc phát huy dân chủ trong đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
đã đề ra chính sách dân tộc là “Đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau giữa các
dân tộc, cùng tiến bộ”. Chính sách đó đã được thể chế vào Hiến pháp và các luật
cơ bản của Nhà Nước Việt Nam.
Việc thực hiện Chính sách dân tộc đã đạt được một số kết quả như từ chỗ đều
bị áp bức bóc lột đã trở thành người làm chủ đất nước; đã tạo ra cơ sở hạ tầng
phục vụ sản xuất và đời sống rộng khắp trên mọi miền của đất nước; từ chỗ tự
cung tự túc đã hình thành một số vùng sản xuất có tính chất hàng hóa với quy
mô ngày càng lớn; sự nghiệp giáo dục, văn hóa, bảo vệ sức khỏe đã được phát
triển rất mạnh so với trước; hệ thống chính trị đã được xây dựng củng cố vững
mạnh; đội ngũ cán bộ và trí thức người dân tộc thiểu số đã được hình thành.ông
Cư Hòa Vần nói: để giải quyết tốt vấn đề dân tộc cần phải coi phát triển kinh tếxã hội vùng dân tộc thiểu số là nhiệm vụ chính trị hàng đầu; đặc biệt là phải
quan tâm đến tất cả các vùng dân tộc. Trước mắt, tập trung làm tốt chương trình
phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khóa khăn, vùng sâu, vùng xa; đồng thời
giữ gìn, phát huy bản sắc văn tốt đẹp của các dân tộc cũng như tăng cường đào
tạo, bồi dưỡng, hình thành đôi ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số trong sạch và
vững mạnh.
2.3. Một số phương hướng để thực hiện tốt chính sách dân tộc nhằm giải
quyết vấn đề dân tộc ở nước ta:
Thứ nhất, thực hiện xây dựng Luật Dân tộc:
Nước ta là một nước có nhiều dân tộc. Theo đường lối đổi mới của Đảng về
xây dựng nhà nước pháp quyền. Do đó trong giai đoạn này cần thiết phải thể
chế những tư tưởng quan điểm chính sách dân tộc của Đảng thành luật pháp của
Nhà nước, làm cơ sở pháp lý để giải quyết những vấn đề phát sinh trong quan
hệ giữa các dân tộc trong tình hình mới.Tiếp tục hoàn thiện và thể chế hóa
đường lối chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước vào các dự án Luật mà Quốc
hội đã và sẽ thông qua.
Thứ hai, thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ:
Đưa ra những chính sách thu hút thích đáng để thu hút,quy hoạch đào tạo
bồi dưỡng sử dụng cán bộ dân tộc thiểu số từ cơ sở cho đến trung ương, nghĩa là
đề ra được nhu cần từng loại cán bộ trong từng thời kỳ theo mục tiêu, chiến
lược cán bộ chung của cả nước và của các dân tộc được đào tạo sử dụng tương
ứng với tỷ lệ dân số của dân tộc đó,để tuyên truyền hướng dẫn bà con.
Thứ ba, thực hiện tích cực chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo:
14
Mục tiêu của chương trình này là xóa đói, nghèo, xóa được du canh, du cư,
góp phần triệt tiêu tình trạng đặc biệt khó khăn. Đối tượng của chương trình là
diện đói nghèo của cả tất cả các khu vực trên cả nước đặc biệt hơn là khu vực có
nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, tạo niềm tin vào Nhà nước cho đồng
bào.
Thứ tư, thực hiện chính sách đầu tư:
Thực hiện chính sách đầu tư không chỉ ở tát cả các vùng trong cả nước mà
bên cạnh đó cần chú trọng đặc biệt tới việc đầu tư vào vùng sâu, vùng xa vùng
có nhiều các đồng bào dân tộc sinh sống tạo điều kiện cho họ làm ăn sinh sống
phát triển,không nghe theo lời dụ dỗ của kẻ gian và các thế lực phản động.
Thứ năm, thực hiện phân bố tộc người, đặc điểm dân cư, dân số và quan hệ
dân tộc.
Thứ sáu, phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi và các vùng dân tộc thiểu số.
Phát triển kinh tế - xã hội ở vùng miền núi và dân tộc thiểu số phải
tăng trưởng với tốc độ cao hơn mức bình quân chung của cả nước mới có thể
từng bước thu hẹp khoảng cách giữa các dân tộc và các vùng, quan tâm đến
từng vùng và từng dân tộc, tiến tới sự bình đẳng thực sự trên bình diện kinh tếchính trị, xã hội…
Thứ bảy, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong xây dựng nền văn
hóa Việt Nam.
Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc. Văn hóa dân
tộc có được bảo tồn và phát huy thì dân tộc mới phát triển. Giữ gìn và làm giầu
tiếng nói của mỗi dân tộc là cốt lõi của văn hóa, phát triển văn học nghệ thuật
của các dân tộc... đóng góp vào nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc.
Ngoài ra còn phải phát huy dân chủ, công khai, minh bạch trong việc thực
hiện các chương trình phát triển kinh tế-xã hội ở vùng dân tộc thiểu số để nhân
dân biết, giám sát chặt chẽ việc thực hiện các chủ trương chính sách đó thì chắc
chắn sẽ phát huy được hiệu quả đầu tư của các chương trình dự án.
Phát huy tinh thần tự lực, tự cường của các dân tộc, củng cố tăng cường đoàn
kết các dân tộc xung quanh Đảng Cộng sản Việt Nam, thi đua giúp đỡ nhau
cùng phát triển, chống tư tưởng ỷ lại, nơi nào, bộ phận nào, dân tộc nào trong
cộng đồng mà ỷ lại thì sẽ tụt hậu vì không thể sử dụng có hiệu quả sự đầu tư hỗ
trợ của Nhà nước và sự giúp đỡ của các dân tộc anh em.
Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn luôn có vị trí chiến lược trong sự
nghiệp cách mạng. "thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ, giúp nhau cùng phát triển", là sức mạnh để đảm bảo sự phát triển bền
vững, đạt tới mục tiêu chung : Độc lập, dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội,
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"
III.KẾT LUẬN
Như vậy, vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và nhà nước ta mang
tính toàn diện tổng hợp và quán xuyến tất cả các lính vực của đời sống xã hội,
15
liên quan đến mỗi dân tộc và quan hệ giữa các dân tộc trong cả cộng đồng quốc
gia. Vói nhận thức đúng đắn về bản chất nội dung, tính chất của chính sách dân
tộc có ý nghĩa quyết định tới việc định hướng và đổi mới các biện pháp thực
hiện chính sách dân tộc làm cho chính sách dân tộc đi vào cuộc sống, các dân
tộc đoàn kết, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác – Lênin, nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2009.
2. PGS. TS. Trần Văn Phòng . PGS. TS. An Như Hải. PGS. TS. Đỗ Thị Thạch,
Hỏi - đáp những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, nhà xuất bản
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội 2011.
3. PTS. Nguyễn Quốc Phẩm. GS. Trịnh Quốc Tuấn, Mấy vấn đề lí luận và thực
tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà nội – 1999.
4. Học viện Chính tị quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Vấn đề dân tộc và chính
sách dân tộc của Đảng và Nhà nướ ta (tập bài giảng), Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia.
5. GS.PTS. Trịnh Quốc Tuấn (chủ biên), Bình đẳng dân tộc ở nước ta hiện nay
– vấn đề và giải pháp, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà nội -1996.
6. GS.TS. Trần Hữu Tiến. GS.TS, Nguyễn Ngọc Long, PGS.TS. Nguyễn Xuân
Sơn, Quan hệ giai cấp dân tộc – quốc tế (sách tham khảo), Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia, Hà nội – 2002.
7. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội 1996
8. Bộ giáo dục và đào tạo, giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005.
9. www.Dangcongsan.vn
16

Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét