10 thg 3, 2016

Thực trạng liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua mô hình Cánh đồng mẫu lớn xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang

Đề tài: Thực trạng liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua mô hình “Cánh đồng mẫu lớn” xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang. Liên kết trực tiếp giữa nông dân và thương lái là hình thức liên kết khi thương nhân hay thương lái trực tiếp thu mua sản phẩm nông nghiệp tại ruộng hay vườn của nông dân. Thương lái có mối quan hệ truyền thống, gần gũi và gắn bó với người nông dân thông qua việc họ mua lúa tại địa phương trong nhiều năm. Mua lúa tại địa phương tương đối hiệu quả khi thương lái đạt được mức lợi nhuận phù hợp với số lượng vốn của họ. Mặc khác, mua lúa tại địa phương thường có chi phí giao dịch cao, do đó thương lái thường ép giá người nông dân để bù lại phần chi phí. Điều này có thể khắc phục khi người nông dân gom lại với một số lượng lớn lúa vào một nơi và chỉ bán cho một hay vài thương lái. 2.2.2 Trực tiếp nông dân và nhà bán lẻ Liên kết trực tiếp giữa nông dân với nhà bán lẻ là hình thức liên kết các nhà hàng, siêu thị hay các nhà bán lẻ lớn liên hệ đặt hàng trực tiếp với người nông dân, nhưng các nhà hàng siêu thị lớn thường không muốn liên kết với nông dân trên cơ sở lâu dài. Tuy nhiên, một số nghiên cứu ở Ấn Độ, Nam Phi và Uganda chỉ ra những điều ngược lại. Đặc biệt ở Uganda, các nhà hàng thức ăn nhanh đã liên kết trực tiếp với nông dân. Nhưng trong trường hợp này, người nông dân cần thiết phải phát triển một loại khoai tây mới, thay đổi tập quán sản xuất để tăng kích thước khoai tây và độ ẩm, thời gian trồng tách biệt nhau và trồng ở các độ cao khác nhau để đảm bảo quanh năm sẵn có. Bên cạnh đó, nông dân vẫn gặp nhiều khó khăn trong cuộc họp thảo luận về tiêu chuẩn chất lượng cung cấp, mặc dù họ đã nhận được những hỗ trợ về kỹ thuật. (Andrew W.Shepherd 2007) 2.2.3 Liên kết thông qua những nông dân uy tín hay đứng đầu (leading farmer) Những nông dân này thường là những nhóm không chính thức gồm một hay nhiều nông dân liên kết lại với nhau. Những nông dân có uy tín hay đứng đầu ở Thái Lan thường có xu hướng liên kết lại với nhau từ những khu vực khác nhau, để có thể đảm số lượng cung cấp cho thị trường. Tuy nhiên, nếu trường hợp giá thị trường thấp, những nông dân sẽ lôi kéo tích trữ hàng hóa với số lượng lớn. Nhưng 14 Đề tài: Thực trạng liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua mô hình “Cánh đồng mẫu lớn” xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang. nếu những nông dân này phối hợp tốt sẽ tạo hiệu ứng tích cực cho nhiều nông dân khác. Như đối với trường hợp trồng rau ờ Thái Lan, vai trò phối hợp của các nông dân uy tín ở Mindanao xuất hiện góp phần thiết yếu cho sự thành công cho những người nông dân, mở rộng các hoạt động hợp tác và đa dạng hơn các loại cây trồng. Tại Thái Lan, chủ tịch Hội những người trồng rau đã phối hợp thu hoạch để đảm bảo chính xác số lượng được cung cấp mỗi ngày. (Andrew W.Sheperd 2007) 2.2.4 Liên kết thông qua hợp tác xã (HTX) Liên kết thông qua HTX là HTX là liên kết giữa nông dân với HTX, khi liên kết như vậy thì nông dân sẽ có lợi là được hưởng những lợi ích như hỗ trợ về đầu vào, kỹ thuật hoặc có thể được hỗ trợ về tín dụng, có cơ hội bán số lượng lớn với giá trị cao, những sản phẩm sẽ được HTX thu gom, đóng gói, phân loại và bán ra thị trường (Andrew W.Sheperd 2007). Liên kết thông qua HTX được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới, ở các nước phát triển như Phần Lan, Nhật Bản, Achentina, HTX đã tạo quyền lực cạnh tranh tốt đối với Doanh nghiệp do giải quyết tốt vấn đề quy mô của nông dân, thực hiện chức năng thông qua hành động tập thể, kết hợp nhiều nguồn lực và hạ chi phí giao dịch. Ngoài ra, các HTX này thành công nhờ sự tự nguyện của nông dân, làm hạn chế những vấn đề tranh chấp nội bộ nảy sinh trong những quyết định quan trọng của tập thể (Nguyễn Tri Khiêm 2003a). Tuy nhiên, ở những nước Châu Á, liên kết thông qua HTX thường phát sinh nhiều mặt hạn chế do chịu phụ thuộc nhiều sự tài trợ từ bên ngoài hay những tổ chức phi chính phủ, với trình độ quản lý yếu kém cùng với những áp lực phải phát triển cùng với những xu hướng phát triển của thế giới, những HTX thường gặp nhiều khó khăn khó khăn khi không còn sự giúp đỡ của các tổ chức phi chính phủ hay sự hỗ trợ của nhà nước (Andrew W.Sheperd 2007). Cụ thể với điều kiện của Việt Nam thì HTX không thể làm hết vai trò của chính HTX. Một thí thụ ở các HTX nông nghiệp ở An Giang, hoạt động của HTX nông nghiệp mặc dù đã được nhà nước hỗ trợ nhiều chính sách ưu đãi, nhưng vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn, 15 Đề tài: Thực trạng liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua mô hình “Cánh đồng mẫu lớn” xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang. chưa phát huy được sức mạnh tập thể, chưa đáp ứng nhu cầu về dịch vụ trong sản xuất nông nghiệp của nông dân. Các hoạt động chủ yếu của HTX nông nghiệp là dịch vụ đầu vào cho sản xuất nông nghiệp, nồng cốt là dịch vụ tưới tiêu (Đặng Thị Thanh Huỳnh 2010). 2.2.5 Trực tiếp giữa nông dân với nhà máy chế biến (bao gồm cả sản xuất theo hợp đồng) Liên kết giữa nông dân và nhà máy chế biến là hình thức liên kết mà nhà máy chế biến liên kết trực tiếp với những nhóm nông dân thông qua hợp đồng, những nhóm này có thể được cung cấp đầu vào, hỗ trợ kỹ thuật và có thể được cung cấp tín dụng (Andrew W.Sheperd 2007). Hiệp hội mía đường Lam Sơn ở Thanh Hóa là một dạng liên kết giữa Công ty Mía Đường, nông dân trồng mía, ngân hàng và chính quyền địa phương. Hiệp hội đã gắn kết giữa liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm mía đường (Nguyễn Tri Khiêm 2003a). Một nhà máy đường liên doanh giữa một công ty nhà nước và tập đoàn quốc tế trong khu vực ven biển Miền Bắc. Nông dân trong vùng thường gặp nhiều khó khăn trong việc đầu tư cây trồng mới. Mất khoảng 14 tháng giữa trồng và thu hoạch vụ mùa đường đầu tiên. Các dự án tập trung giải ngân vốn cho người trồng theo hình thức cho vay ngắn hạn. miễn phí hạt giống và phân bón cho khoảng 200 ha. Để giảm chi phí xử lý, vốn bắt đầu được giải ngân cho các nhóm từ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, mỗi nhóm gồm 50 thành viên. Mỗi nhóm chịu trách nhiệm giải ngân để các thành viên chia sẽ trách nhiệm đối với tín dụng và trả nợ. (Andrew W.Sheperd 2007). 2.2.6 Nông dân với Công ty xuất khẩu Liên kết giữa nông dân với công ty xuất khẩu là liên kết giữa những nhóm nông dân trực tiếp với công ty xuất khẩu. Liên kết này đòi hỏi cao về chất lượng sản phẩm, Công ty xuất khẩu thường cung cấp sự hỗ trợ đầu vào, kỹ thuật, tín dụng, cả vận chuyển và đóng gói. Điểm khác biệt giữa liên kết này với liên kết giữa nông dân với nhà máy chế biến là liên kết nông dân với công ty xuất khẩu 16 Đề tài: Thực trạng liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua mô hình “Cánh đồng mẫu lớn” xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang. chủ yếu được thực hiện ở công ty chủ yếu xuất khẩu, cụ thể chỉ để xúc tie1n thị trường có giá trị cao (Andrew W.Shepherd 2006 và 2007). 2.2.7 Sản xuất theo hợp đồng. Sản xuất theo hợp đồng là doanh nghiệp s4 cung cấp cho một nông dân đầu vào, đầu r và hỗ trợ kỹ thuật theo một hợp đồng chính thức (Andrew W.Shepherd 2007). Một hợp đồng nông nghiệp cần phải có những tiêu chuẩn cụ thể về thị trường như những quy định về tieu chuẩn chấp lượng và cung ứng đầu vào, những quy định về quy trình sản xuất, giống được sử dụng để bảo đảm thu nhập tối thiểu cho người nông dân, những tiêu chuẩn về thu nhập và cách thức quản lý như cơ cấu định giá phải được xác định trước, những hỗ trợ kỹ thuật tiến bộ và các phương thức kiểm soát, quản lý được quy định rõ ràng (Charles Eaton và Andrew W.Shepherd 2001). Liên kết sản xuất đã được phát triển ở nhiều nước từ những thập niên 1980. các dạng hợp đồng rất đa dạng ở Châu Á cũng như những hệ thống chính thức ở các nước châu Mỹ La Tinh, Trung Đông và Đông Á. Các dạng hợp đồng giúp nông dân có thể được tiếp cận với tín dụng, giống và đưa sản phẩm ra thị trường trong nước và thế giới. Các Chính phủ của các nước này với vai trò hỗ trợ thông tin giúp nông dân và tư thương hay doanh nghiệp hợp tác với nhau. Bên cạnh đó, thông qua các cơ chế thi hành hợp đồng, giúp giải quyết tranh chấp hợp đồng, phân loại và những tiêu chuẩn chất lượng (Nguyễn Tri Khiêm 2003a) Tuy nhiên, sản xuất theo hợp đồng có thể mang lại cả những thuận lợi và bất lợi cho cả doanh nghiệp và nông dân. Theo Charles Eaton và Andrew W.Shepherd (2001), khi nông dân tham gia hợp đồng sẽ nhận được nhiều thuận lợi, được các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ đầu vào, cung cấp tín dụng để hỗ trợ trong quá trình sản xuất, thường xuyên được giới thiệu công nghệ mới, một số hình thức hợp đồng sẽ có giá trị trước nên sẽ giảm rủi ro cho nông dân, và điều quan trọng là nông dân có thể tiếp cận được thị trường một cách dễ dàng hơn. 17 Đề tài: Thực trạng liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua mô hình “Cánh đồng mẫu lớn” xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang. Những doanh nghiệp khi ký hợp đồng với nông dân sẽ được nhiều thuận lợi về mặt chính trị vì được sự ủng hộ của chính quyền địa phương. Bên cạnh đó sản xuất với nông dân sẽ đáng tin cậy hơn những đối tác khác hay gặp những vấn đề về đất dai, đồng thời ít chịu trách nhiệm trong quá trình sản xuất, nhưng khi thuận lợi sẽ đạt nhiều lợi nhuận. Tuy vậy khi doanh nghiệp ký hợp đồng với nông dân thường ký ngắn hạn nên ảnh hưởng đến khả năng phát triển lâu dài và bền vững. Sự hạn chế về văn hóa và xã hội cũng ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng những thông số của kỹ thuật, đồng thời nông dân cũng có thể bán ngoài hợp đồng hay khi cung cấp tín dụng cho nông dân có thể sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau, do đó sẽ làm giảm năng suất, giảm đầu vào của nhà máy chế biến. Ngoài ra khi doanh nghiệp quản lý yếu kém, thiếu sự quan tâm, liên hệ với nông dân, cũng sẽ làm nông dân bất mãn và không tuân thủ theo hợp đồng. (Charles Eaton và Andrew W.shepherd 2001). Cụ thể ở An Giang, Nguyễn Tri Khiêm (2005), thực hiện nghiên cứu “ sản suất nông nghiệp theo hợp đồng bao tiêu sản phẩm ở An Giang”. Bài viết đã chỉ ra những khó khăn trong việc thực hiện hợp đồng là nông dân chưa có niềm tin vào lợi ích đem lại từ hợp đồng, chưa quen với những quy trình kỹ thuật và những tiêu chuẩn trong hợp đồng. Trong quá trình thực hiện thu mua, các HTX liên kết với doanh nghiệp lại thiếu phương tiện để thu mua hết diện tích ký theo hợp đồng, cho nên một số nông hộ bán lúa ra bên ngoài. Các doanh nghiệp chưa thật quan tâm đến hợp đồng bao tiêu, không nhìn thấy sự cần thiết phải xây dựng vùng nguyên liệu riêng, ngoài ra do các doanh nghiệp chưa có hợp đồng xuất khẩu dài hạn chủ yếu là những hợp đồng xuất khẩu ngắn hạn nên thường không quan tâm đến việc ký kết hợp đồng lâu dài với nông dân. Bên cạnh đó, áp lực thị trường chưa đủ mạnh để nông dân và doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện hợp đồng, vì thế thường xuyên xuất hiện những hiện tượng nông dân và Doanh nghiệp luân phiên phá vỡ hợp đồng khi có những thay đổi của thị trường. 18 Đề tài: Thực trạng liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua mô hình “Cánh đồng mẫu lớn” xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang. 2.3 MỘT SỐ DẠNG MÔ HÌNH LIÊN KẾT TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP Liên kết sản xuất trong phát triển nền nông nghiệp hiện đại là hướng đi tất yếu trong bối cảnh nước ta phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Thế nhưng, thực tế sản xuất nông nghiệp ở nước ta hiện nay, các mô hình liên kết, bao tiêu sản phẩm nông nghiệp của các doanh nghiệp đối với nông hộ vẫn còn hết sức lỏng lẻo, dẫn đến nông sản Việt Nam không cạnh tranh được trên thị trường quốc tế. Hiện nay, giữa người nông dân và doanh nghiệp đang tồn tại nhiều hình thức liên kết trong sản xuất. Trong đó có bốn hình thức chủ yếu là: Doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm đầu ra nhưng không đầu tư, không tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất. Hình thức này, thực chất chỉ là cách làm "ăn xổi, ở thì", sự ràng buộc về trách nhiệm và quyền hạn pháp lý giữa các bên tham gia chưa bền vững. Hình thức thứ hai là doanh nghiệp đầu tư, có tham gia một phần vào quá trình sản xuất của nông dân và bao tiêu sản phẩm. Với mô hình nói trên, doanh nghiệp thường đóng vai trò người thu mua, bao tiêu toàn bộ hàng hóa do nông dân sản xuất ra theo một mức giá sàn do doanh nghiệp đặt ra và có ứng trước vật tư, hướng dẫn quy trình sản xuất, kiểm tra chất lượng sản phẩm... Điểm mạnh của mô hình là liên kết tốt giữa nông dân và doanh nghiệp. Nông dân làm ra sản phẩm không chỉ có địa chỉ bán nông sản mà còn được doanh nghiệp chia sẻ về chi phí sản xuất, được nâng cao trình độ sản xuất. Doanh nghiệp thật sự đóng vai trò đầu tàu trong mối liên kết. Tuy nhiên, hạn chế mang tính đặc trưng của mô hình này chính là trách nhiệm của hai bên doanh nghiệp - nông dân chỉ dựa trên chữ tín. Hợp đồng dễ bị phá vỡ khi giá cả thị trường biến động. Đơn cử cho mô hình trên là các mô hình "cánh đồng mẫu lớn" trồng lúa hay tiêu thụ mía đường, cà-phê... Mô hình liên kết khác cũng đang được áp dụng tại một số địa phương mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội khả quan là hình thức gia công sản xuất. Doanh nghiệp 19

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét