
28 thg 3, 2016
So sánh doanh nghiệp tư nhân và công ty TNHH một thành viên ( 9 điểm )
thuộc sở hữu cá nhân mình và về nguyên tắc, tài sản đưa vào kinh doanh đó là tài sản
của doanh nghiệp tư nhân. Nhưng trong quá trình hoạt động, chủ doanh nghiệp tư nhân
vẫn có quyền tăng hoặc giảm vốn đầu tư, chỉ khai báo với cơ quan đăng kí kinh doanh
trong trường hợp giảm vốn xuống dưới mức đã đăng kí
3. Về chế độ chịu trách nhiệm:
CTTNHH là chịu trách nhiệm hữu hạn. Khi sự rủi ro xảy ra thì chủ doanh nghiệp
chỉ phải trả bằng số tài sản đã đăng kí mà không nhất thiết phải dùng đến toàn bộ tài sản
của mình do có sự tách bạch về 2 phần tài sản ( một phần đăng kí, một phần là tài sản
của chủ sở hữu) vì vậy chịu trách nhiệm hữu hạn trong trường hợp có rủi ro.
DNTN là chịu trách nhiệm vô hạn. Do tính chất độc lập về tài sản của doanh nghiệp
không có nên chủ doanh nghiệp tư nhân là người chịu trách nhiệm duy nhất trước các
rủi ro của doanh nghiệp, cá nhân này phải dùng toàn bộ tài sản của mình không chỉ là
phần tài sản đã đăng kí để trả toàn bộ số nợ khi doanh nghiệp đó xảy ra rủi ro.
4. Về tư cách pháp nhân:
CTTNHH một thành viên có tư cách pháp nhân ngay từ khi được cấp giấy chứng
nhận đăng kí kinh doanh.
DNTN không có tư cách pháp nhân bởi vì không thỏa mán một trong những điều
kiện cơ bản và quan trọng để có tư cách pháp nhân là tài sản của doanh nghiệp đó phải
độc lập trong quan hệ với tài sản của chủ doanh nghiệp.
5. Về tổ chức :
CTTNHH một thành viên trong vấn đề tổ chức quản lý công ty chia thành hai lọai
hình tổ chức: đối với CTTNHH một thành viên là tổ chức và đối với CTTNHH một
thành viên là cá nhân nhưng nhìn chung công tác quản lý tổ chức được phân chia rõ ràng
với cơ cấu tổ chức cụ thể nhất định.
DNTN chỉ có một chủ đầu tư duy nhất, chủ doanh nghiệp có quyền định đoạt với tài
sản doanh nghiệp cũng như có toàn quyền quyết định việc tổ chức quản lý doanh nghiệp
để doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả nhất. Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tự
mình quản lý hoặc thuê người quản lý nhưng vẫn là người chịu trách nhiệm trực tiếp
trước pháp luật và các bên thứ ba.
6. Về lợi nhuận:
CTTNHH một thành viên việc lợi nhuận tạo ra không chỉ thuộc hoàn toàn vào
chủ sở hưu công ty mà phải thiết lập chế độ Thù lao, tiền lương và thưởng được quy
định tại điều 58 luật Doanh Nghiệp năm 2005.
DNTN toàn bộ lợi nhuận tạo ra trong quá trình kinh doanh sẽ thuộc về chủ doanh
nghiệp sau khi đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với nhà nước và các bên thứ 3.
7. Về việc phát hành chứng khoán:
CTTNHH một thành viên không được phát hành cổ phiếu bởi vì “Cổ phiếu là
chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành để xác nhận quyền sở hữu cổ phần của người
nắm giữ cổ phiếu của công ty” mà CTTNHH một thành viên chỉ do một cá nhân hoặc tổ
chức làm chủ sở hữu nên không được phép phát hành cổ phiếu nhưng CTTNHH một
thành viên có thể phát hành trái phiếu nhằm tăng vốn hoạt động.
DNTN không được phép phát hành bất kì loại chứng khoán nào xuất phát từ lý do về
đặc trưng pháp lý cơ bản của nó là một doanh nghiệp tư nhân không có khả năng thanh
toán nợ đến hạn và lâm vào tình trạng phá sản thì tất cả những tài sản thuộc sở hữu của
DNTN đều nằm trong diện tài sản phá sản của doanh nghiệp.
Tại sao LDN 2005 lại ghi nhận thêm loại hình CTTNHH một thành viên?
LDN 2005 ghi nhận thêm loại hình CTTNHH một thành viên vì một lý do như sau:
1) Thừa nhận CTTNHH một thành viên là cá nhân sẽ mở rộng thêm quyền tự chủ
kinh doanh, tạo cơ hội phân tán và hạn chế rủi ro cho dự án, tăng mức độ an toàn cho
nhà đầu tư; nhờ đó, số người đầu tư và số vốn huy động được có thể sẽ tăng lên.
2) Người Việt Nam hiện nay nói chung vẫn có tâm lý thích kinh doanh một mình;
tức là một mình làm chủ và trực tiếp tổ chức quản lý kinh doanh. Trong các cuộc gặp
mặt doanh nhân, đa số người tham dự đã kiến nghị cho phép cá nhân thành lập
CTTNHH một thành viên để giảm rủi ro và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho họ trong đầu
tư và kinh doanh.
3) Trên thực tế hiện nay đa số CTTNHH hai thành viên trở lên về thực chất là sở
hữu của một cá nhân. Một hay một vài thành viên khác tham gia chỉ là hình thức để phù
hợp với quy định của pháp Luật. Ngoài ra, Luật về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cũng
đã cho phép cá nhân người nước ngoài, Việt kiều thành lập công ty 100% vốn đầu tư
nước ngoài, là một loại hình TNHH. Như vậy, thực tế ở nước ta đã có CTTNHH do một
cá nhân làm chủ sở hữu.
4) Kinh nghiệm quốc tế cho thấy một số quốc gia như cộng hòa Liên Bang Đức, Đan
Mạch, Thụy Điển, Cộng hòa Séc, v.v... đã thừa nhận và cho phép một cá nhân thành lập
và vận hành CTTNHH
III. Kết Luận
Từ việc phân biệt DNTN với CTTNHH một thành viên có thể nhận thấy khi
quyết định thành lập doanh nghiệp chủ đầu tư cần xem xét tới nhiều yếu tố khác nhau
như vốn, khả năng quản lý và chi phí, ngành nghề kinh doanh… Để hạn chế rủi ro trong
việc bỏ vốn kinh doanh cá nhân nên thành lập DN dưới hình thức CTTNHH. Tuy nhiên
DNTN lại dễ huy động vốn hơn….

Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét