6 thg 4, 2013

Quyền Thừa Kế Cá nhân

TL 18

1.    Lời mở đầu.
Hiến pháp 1992 và Điều 631 Bộ luật Dân sự 2005 (BLDS 2005) đều ghi nhận quyền hưởng thừa kế của cá nhân. Tuy nhiên, trong đời sống xã hội có một số trường hợp cá biệt người thừa kế vi phạm nghiêm trọng hoặc có hành vi trái đạo đức xã hội bị pháp luật tước quyền thừa kế. Có trường hợp con đối xử không đúng mực với cha mẹ như không chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ già, thậm chí còn mưu toan giết cha hoặc mẹ, anh em đánh giết lẫn nhau để tranh giành tài sản…những trường hợp đó cần phải nghiêm trị theo pháp luật. Mặt khác, vì có hành vi vi phạm đạo đức nghiêm trọng cho nên pháp luật cần phải tước quyền thừa kế của người vi phạm và đã được quy định cụ thể tại Điều 643 BLDS 2005. Nhận thấy đây là một vấn đề có tính cấp thiết và quan trọng nên em đã chọn làm đề tài nghiên cứu. Bài viết của em do còn thiếu kinh nghiệm nên không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ phía các thầy cô giáo để bài hoàn thiện hơn.
                                                                      Em xin chân thành cảm ơn!

2.    Nội dung.
2.1: Khái quát về thừa kế.
Nếu khi chưa xuất hiện nhà nước, pháp luật, thừa kế được dịch chuyển theo phong tục tập quán thì khi nhà nước xuất hiện, quá trình dịch chuyển tài sản từ một người đã chết cho người còn sống đã có sự tác động bằng ý chí của nhà nước.
Thừa kế, với ý nghĩa là một phạm trù kinh tế, có mầm mống và xuất hiện ngay trong thời kì sơ khai của xã hội loài người. Theo quan hệ pháp luật dân sự, thừa kế là sự dịch chuyển tài sản và quyền sở hữu tài sản của cá nhân người đã chết cho cá nhân, tổ chức có quyền hưởng thừa kế; người thừa kế trở thành chủ sở hữu của tài sản được hưởng thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật (đối với đất đai là quyền thừa kế quyền sử dụng đất).
Theo nghĩa rộng, quyền thừa kế là pháp luật về thừa kế, là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định trình tự, thủ tục dịch chuyển tài sản của người chết cho người còn sống. Ngoài ra, quyền thừa kế còn được hiểu là quyền của người để lại di sản và quyền của người nhận di sản. Quyền này phải phù hợp với các quy định của pháp luật nói chung và pháp luật thừa kế nói riêng.
      Xét về phương diện này, quyền thừa kế được hiểu là quyền dân sự cơ bản của mỗi công dân được pháp luật bảo vệ. Mọi công dân đều có quyền như nhau trong việc để lại di sản của mình cho những người thừa kế cũng như trong việc nhận di sản thừa kế do người khác để lại. Pháp luật quy định về quyền thừa kế đã mở ra một khả năng trong khuôn khổ pháp luật, để công dân thực hiện quyền dân sự của mình phù hợp với những chuẩn mực do pháp luật cho phép.
       Người thừa kế, người thừa kế là người được nhận di sản thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc hoặc vừa được hưởng theo di chúc, vừa được hưởng theo pháp luật. Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống sau thời điểm mở thừa kế, nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Người thừa kế là pháp nhân, tổ chức thì phải còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Điều 631 BLDS 2005 quy định: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại di sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”.
Và Điều 632 đã nêu rõ: “Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”. Mọi cá nhân với tư cách là chủ sở hữu đều có quyền định đoạt tài sản theo ý chí của mình. Vì vậy, mọi cá nhân không phân biệt nam, nữ, tuổi tác, địa vị xã hội, tôn giáo đều có quyền lập di chúc để chỉ định người thừa kế di sản sau khi mình chết hoặc để lại tài sản của mình cho người khác thừa kế theo quy định của pháp luật. Đồng thời, mọi cá nhân cũng đều bình đẳng về quyền hưởng di sản căn cứ theo di chúc hoặc theo pháp luật. Quyền bình đẳng về thừa kế của cá nhân cũng đã được thể hiện một cách rõ nét trong Luật Hôn nhân và gia đình 1986 và được giữ nguyên tinh thần đến Luật Hôn nhân và gia đình 2000, theo đó, vợ chồng đều được thừa kế tài sản của nhau, phụ nữ và nam giới đều được hưởng thừa kế ngang nhau theo quy định của pháp luật. Các con là những người thừa kế theo pháp luật hàng thứ nhất và có quyền thừa kế ngang nhau di sản của cha, mẹ; không có sự phân biệt giữa con trai và con gái, con cả, con thứ, con trong giá thú và con ngoài giá thú, con đẻ và con nuôi.


Mục lục



Trang
1.     Lời mở đầu.
1
2.     Nội dung.

2.1: Khái quát về thừa kế.
1
2.2: Người không được quyền hưởng di sản.

  2.2.1: Những quy định của pháp luật trước Pháp lệnh thừa kế 1990.
4
  2.2.2: Những quy định của pháp luật từ Pháp lệnh thừa kế 1990 đến nay.
6
  2.2.3: Tính tương đối của tình trạng không có quyền hưởng di sản.
16
  2.2.4: Quyền lợi của người thân thuộc với những người không có quyền hưởng di sản.
17
  2.2.5: Một số điểm hạn chế của Điều 643 BLDS 2005.
18
3.     Kết luận.
19


==========
Loại file: doc
Click vào thanh toán để  biết cách tải file về

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét